Bài soạn Văn lớp 6: Từ mượn

Bài soạn Văn lớp 6: Từ mượn

I. Từ thuần Việt và từ mượn

Ví dụ: giải thích từ “trượng”, “tráng sĩ” trong câu sau. Theo em, từ được chú thích có nguồn gốc từ đâu?

Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng

Trả lời:

  • Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ ( tức 3,33m)
  • Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn.

=>Các từ “trượng”, “tráng sĩ” có nguồn gốc từ Trung Quốc, mượn từ tiếng Hán.

Ví dụ 2: Trong các từ sau, từ nào mượn từ tiếng Hán? Từ nào mượn từ các ngôn ngữ khác?

Sứ giả, ti vi, xà phòng, buồm, mít tinh, ra- đi-ô, gan, điện, ga, bơm, xô viết, giang sơn, in- tơ- nét.

Nhận xét về cách viết các từ mượn nói trên?

Trả lời:

  • Tiếng Hán: sứ giả, giang sơn, gan
  • Ngôn ngữ khác: tivi, xà phòng, mít tinh, ga, bơm, ra- đi –ô, in- tơ- nét.
  • Cách viết:
    • Một số từ: ti vi, xà phòng, mít tinh, ga.. có nguồn gốc Ấn, Âu nhưng được Việt hoá cao hơn, viết như chữ Việt.
    • Các từ như: ra-đi-ô, in-tơ-nét chưa được Việt hoá hoàn toàn. Khi viết có dấu gạch ngang để nối các tiếng.

Ghi nhớ:

  • Từ thuần Việt là những từ do nhân dân ta sáng tạo ra,
  • Từ mượn: chúng ta còn vay mượn nhiều từ của tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm… mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị.
  • Bộ phận từ mượn quan trọng nhất trong tiếng Việt là từ mượn tiếng Hán (gồm từ gốc Hán và từ Hán Việt)
  • Bên cạnh tiếng việt còn mượn từ của một số ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga…
  • Các từ mượn đã được Việt hóa thì viết như từ thuần Việt. Những từ mượn chưa được Việt hóa hoàn toàn, nhất là những từ gồm trên hai tiếng ta nên dùng gạch nối để nối các tiếng với nhau. Ví dụ: ki-lô-gam,in-tơ-nét…
  • II. Nguyên tắc từ mượn

    Ví dụ: Em hiểu ý kiến sau của Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào?

    Đời sống xã hội ngày càng phát triển và đổi mới. Có những chữ ta không có sẵn và khó dịch đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: “độc lập”, “tự do”, “giai cấp”, “cộng sản”, . Còn những tiếng ta có, vì sao không dùng mà cũng mượn chữ nước ngoài ? Ví dụ:

    Không gọi xe lửa mà gọi “hoả xa”; máy bay thì gọi là “phi cơ” ..

    Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao

  • Trả lời:

    Em hiểu câu nói của Bác như sau:

    • Đời sống xã hội ngày càng phát triển và đổi mới, những chữ ta không đủ thì cần mượn từ nước ngoài
    • Nhưng không nên mượn tùy tiện bởi  từ mượn cũng có hai mặt của nó:
      • Mặt tích cực: Làm giàu cho ngôn ngữ
      • Mặt tiêu cực:  Làm cho ngôn ngữ bị pha tạp nếu dùng tùy tiện.

    Ghi nhớ:  Mượn từ là một cách làm giàu tiếng Việt. Tuy vậy, để bảo vệ sự trong sạch của ngôn ngữ dân tộc, không nên mượn từ nước ngoài một cách tùy tiện.

  • Soạn Văn 6 Thánh Gióng

  • [Luyện tập] Câu 1: Ghi lại các từ mượn có trong những câu dưới đây…

    Ghi lại các từ mượn có trong những câu dưới đây. Cho biết các từ ấy được mượn của tiếng (ngôn ngữ) nào?

    a. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên vì trong nhà mình có bao nhiêu sính lễ?

    (Sọ Dừa)

    b. Ngày cưới, trong nhà Sọ Dừa cỗ bàn thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập.

    (Sọ Dừa)

    c. Ông vua nhạc pốp Mai-Cơn Giắc-xơn đã quyết định nhảy vào lãnh địa in-tơ-nét với việc mở một trang chủ riêng.

    Trả lời:

    Những từ mượn có trong câu và nguồn gốc của nó:

    a. Ngạc nhiên, vô cùng, tự nhiên, sính lễ => Từ mượn Hán Việt

    b. gia nhân =>Từ mượn Hán Việt

    c. Mai – cơn Giắc – xơn, In – tơ – net => Từ mượn tiếng Anh.

  • [Luyện tập] Câu 2: Hãy xác định nghĩa của từng tiếng tạo thành các từ Hán Việt dưới đây:

    a. khán giả: người xem; thính giả: người nghe; độc giả: người đọc.

    b. yếu điểm: điểm quan trọng; yếu lược: tóm tắt những điều quan trọng; yếu nhân: người quan trọng.

    Trả lời:

    a. Các từ khán giả, thính giả và độc giả có điểm chung là từ giả. Từ giả có nghĩa là người. Như vậy, các tiếng còn lại có thể định nghĩa là:

    • Khán : nhìn trông coi.
    • Thính : nghe.
    • Độc : đọc

    b. Các từ trong câu đều có chung từ “yếu”. Từ yếu có nghĩa là quan trọng, cần thiết. Như vậy, các tiếng còn lại có thể định nghĩa là:

    • Điểm : vết đen, cái chấm, là điểm.
    • Lược : tóm tắt những điều cơ bản, chủ yếu.
    • Nhân : người.
    • [Luyện tập] Câu 3: Hãy kể một số từ mượn:

      a. Là tên các đơn vị đo lường, ví dụ: mét

      b. Là tên của một số bộ phận của chiếc xe đạp, ví dụ: ghi đông

      c. Là tên một số đồ vật, ví dụ: ra-đi-ô

      Trả lời:

      a. Là tên các đơn vị đo lường: mét, lít, kilogam, kilomet,…

      b. Là tên của một số bộ phận của chiếc xe đạp: gác-dờ-bu, ghi- đông, pê-đan, , đĩa xiđi …

      c. Là tên một số đồ vật: oc-gan, vi-ô-lông, ác-cooc-đi-ông,ghi-ta, ra-đi-ô…

    • [Luyện tập] Câu 4: Những từ nào trong các cặp từ dưới đây là từ mượn? …

      Những từ nào trong các cặp từ dưới đây là từ mượn? Có thể dùng chúng trong hoàn cảnh nào, với những đối tượng giao tiếp nào?

      a. Bạn bè tới tấp phôn / gọi điện đến.

      b. Ngọc Linh là một fan / người say mê bóng đá cuồng nhiệt.

      c. Anh đã hạ nốc ao / đo ván võ sĩ nước chủ nhà.

      Trả lời:

      Các từ mượn trong các câu này là:

      a. phôn

      b. fan

      c. nốc ao

      => Những từ này thường được dùng trong hoàn cảnh giao tiếp bạn bè thân mật hoặc với người thân, ngôn ngữ sinh hoạt đời thường. Có thể sử dụng trên các thông tin báo chí, với ưu thế ngắn gọn. Tuy nhiên, không nên dùng trong những hoàn cảnh giao tiếp trang trọng, nghi thức.

Bài soạn lớp 6: Thánh Gióng

Bài soạn lớp 6: Thánh Gióng

Tìm hiểu chung tác phẩm

  • Thể loại: Truyện truyền thuyết
  • Phương thức: Tự sự
  • Bố cục: 4 phần
    • Phần 1: “Tục truyền” đến “nằm đấy” => Giới thiệu sự ra đời kỳ lạ của Gióng
    • Phần 2: “Bấy giờ: đến “cứu nước”=> Sự lớn lên kỳ lạ của Gióng
    • Phần 3: “Giặc đã đến” đến “lên trời”=> Gióng đánh giặc và về trời
    • Phần 4: “Vua nhớ công” đến “làng Cháy”=> dấu tích còn lại
  • Nhân vật trong truyện: gióng, bố mẹ, vua, sứ giả, dân làng, quân giặc, tướng giặc.
  • Tóm tắt tác phẩm:

Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Đã lên ba tuổi, cậu không biết nói cười, không biết đi.

Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn nhanh. Sau khi ăn hết “bảy nong cơm, ba nong cà” do bà con gom góp mang đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra giết giặc. Roi sắt gãy, Gióng nhổ bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.

Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhớ ơn, vua phong là Phù Đổng Thiên Vương. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm lập hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

Câu 1: Trong truyện Thánh Gióng có những nhân vật nào? …

Trong truyện Thánh Gióng có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính? Nhân vật chính được xây dựng bằng rất nhiều chi tiết tưởng tượng  kì ảo và giàu ý nghĩa. Em hãy tìm và liệt kê những chi tiết đó.

Trả lời:

  • Trong truyện Thánh Gióng có những nhân vật: Gióng, bố mẹ, vua, sứ giả, dân làng, quân giặc, tướng giặc.
  • Nhân vật chính là Gióng – từ một cậu bé kì lạ cho đến khi trở thành Phù Đổng Thiên Vương.
  • Những chi tiết tưởng tượng kì ảo và giàu ý nghĩa của nhân vật Gióng trong truyện là:
    • Sự ra đời kì lạ:
      • Bà mẹ giẫm lên vết chân to ngoài đồng, về nhà thụ thai 12 tháng
      • Gióng 3 tuổi không biết nói, biết đi, đặt đâu nằm đấy.
    • Lớn lên kì lạ:
      • Câu nói đầu tiên từ lúc chào đời: Nhờ mẹ mời sứ giả vào để xin đi đánh giặc.
      • Lớn nhanh như thổi
      • Nhân dân góp gạo nuôi Gióng
    • Ra trận đánh giặc:
      • Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ: tầm vóc lớn lao đủ sức đánh giặc.
      • Phi thẳng đến đón đầu giặc, đánh giết hết lớp này đến lớp khác.
      • Roi sắt gãy, nhổ tre đánh giặc.
    • Bay về trời:
      • Gióng cởi áo giáp để lại, cưỡi ngựa bay thẳng về trời.
      • Ngựa phun lửa thiêu cháy một làng, chân ngựa chạy biến thành ao hồ, tre ngả màu vàng óng…

Câu 2: Theo em, các chi tiết sau đây có ý nghĩa như thế nào?

a.Tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc.

b. Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc.

c. Bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé.

d. Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ.

đ. Gậy sắt gãy, Gióng nhố tre bên đường đánh giặc.

e. Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời.

Trả lời:

a. Tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói đòi đánh giặc → Ý thức đất nước được đặt lên đầu tiên với người anh hùng.

b. Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đi đánh giặc → Ý thức chuẩn bị chu đáo, kỹ càng trước một cuộc chiến của người anh hùng. Đánh giặc không chỉ cần lòng yêu nước mà cần cả vũ khí sắc bén để thắng giặc.

c. Bà con làng xóm vui lòng đóng góp gạo nuôi cậu bé -> Ước mong Gióng lớn nhanh để kịp đánh giặc giữ nước → Gióng thuộc về nhân dân, sức mạnh của Gióng là sức mạnh của cả cộng đồng.

d. Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ → Sự trưởng thành vượt bậc của người anh hùng khí đất nước đứng trước nạn ngoại xâm.

đ. Gậy sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc -> Tre là cây cỏ của đất nước, sản vật của quê hương. Điều này cho thấy, cả quê hương sát cánh cùng Gióng đánh giặc.

e. Thánh Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời -> Đánh giặc cong, Gióng không trở về thân phận thường, không hề đòi hỏi công danh. Dấu tích của chiến công, Gióng để lại cho quê hương, xứ sở.

Soạn Văn 6 Giao Tiếp Và Phương Thức Biểu Đạt

Câu 3: Hãy nêu ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng?

Trả lời:

Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc cứu nước. Trong văn học dân gian Việt Nam nói riêng, văn học Việt Nam nói chung đây là hình tượng người anh hùng đánh giặc đầu tiên, rất tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta.

Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng đồng ở buổi đầu dựng nước: sức mạnh của tổ tiên thần thánh ( sự ra đời thần kì); sức mạnh của tập thể cộng đồng ( bà con làng xóm góp gạo nuôi Gióng); sức mạnh của thiên nhiên, văn hóa, kĩ thuật ( núi non khắp vùng trung châu, tre và sắt)

Phải có hình tượng khổng lồ, đẹp và khái quát như Thánh Gióng mới nói được lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.

Câu 4: Truyền thuyết thường liên quan đến sự thật lịch sử….

Truyền thuyết thường liên quan đến sự thật lịch sử. Theo em, truyện Thánh Gióng có liên quan đến sự thật lịch sử nào?

Trả lời:

Khảo cổ học đã chứng minh sự thật lịch sử liên quan đến truyện Thánh Gióng ở mấy điểm sau đây:

  • Vào thời đại Hùng Vương, chiến tranh tự vệ ngày càng trở nên ác liệt,  đòi hỏi phải huy động sức mạnh của cả cộng đồng.
  • Số lượng và kiểu loại vũ khí của người Việt cổ tăng lên từ giai đoạn Phùng Nguyên đến giai đoạn Đông Sơn.
  • Vào thời Hùng Vương, cư dân Việt cổ tuy nhỏ nhưng đã kiên quyết chống lại mọi đạo quân xâm lược lớn mạnh để bảo vệ cộng đồng.

[Luyện tập] Câu 1: Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất trong tâm trí em?

Trả lời:

Trong các hình ảnh về Thánh Gióng, có thể chọn một hình ảnh đẹp nhất như:

  • Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Em thích hình ảnh này vì nó tượng trưng cho sức mạnh phi thường của Gióng. Khi đất nước cần, mỗi người dân đều sẵn sàng đóng góp công sức cho dân tộc.
  • Một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Vì khi hoàn thành nhiệm vụ đất nước giao phó, Gióng đã không màng danh lợi
  • [Luyện tập] Câu 2: Theo em, tại sao hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông lại mang tên là Hội khoẻ Phù Đổng?

    Trả lời:

    Hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông lại mang tên là Hội khoẻ Phù Đổng vì:

    • Hội thi dành cho lứa tuổi thiếu niên, lứa tuổi Thánh Gióng trong thời đại mới. Mong muốn thế hệ trẻ hôm nay phát huy được sức mạnh và tinh thần của Thánh Gióng năm xưa.
    • Hình ảnh Thánh Gióng là hình ảnh của sức mạnh, tinh thần đoàn kết tập thể, của tinh thần chiến thắng rất phù hợp với ý nghĩa của một hội thi thể thao.
    • Soạn Văn 6 Từ Và Cấu Tạo Từ Tiếng Việt

Bài soạn lớp 6: Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt

Bài soạn lớp 6: Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt

I. Tìm hiểu chung về văn bản và phương thức biểu đạt

1. Văn bản và mục đích giao tiếp

Ví dụ: Xét các câu hỏi ở sgk trang 15, 16

Trả lời:

a. Khi có một tư tưởng tình cảm, nguyện vọng cần biểu đạt cho một người hay ai đó biết thì em sẽ nói ra hoặc viết ra giấy.

b. Khi muốn biểu đạt tư tưởng tình cảm nguyện vọng ấy một cách đầy đủ, trọn vẹn cho người khác hiểu thì em phải nói có đầu có đuôi, rõ ràng và đầy đủ lí lẽ, nghĩa là phải tạo lập văn bản.

c.     Ai ơi giữ chí cho bền

Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai.

  • Câu ca dao được sáng tác ra để khuyên nhủ con người cần giữ được ý chí của mình, dù bất kì hoàn cảnh nào cũng cần giữ vững lập trường. Chủ đề của văn bản là giữ chí cho bền và được được nêu ra ở câu trên.
  • Câu dưới giải thích rõ thêm, giữ chí cho bền nghĩa là không dao động khi người khác thay đổi chí hướng.

d. Lời phát biểu của thầy (cô) giáo hiệu trưởng trong lễ khai giảng năm học cũng là văn bản vì nó là chuỗi lời, có chủ đề. Đây là văn bản nói.

đ. Bức thư là một văn bản viết, có thể thức, có chủ đề xuyên suốt là thông báo tình hình và quan tâm đến người nhận thư.

e.Các thiếp mời, đơn xin học, bài thơ, truyện cổ tích, câu đối đều là văn bản, vì chúng có mục đích, yêu cầu thông tin và có thể thức nhất định.

Một số văn bản khác: Đơn xin nghỉ phép, bài phát biểu của em trong lễ bế giảng, bài báo…

Soạn Văn 6 Từ Và Cấu Tạo Từ Tiếng Việt

2. Kiểu văn bản và phương thức biểu đạt của văn bản

Ví dụ: Hãy lựa chọn kiểu văn bản và phương thức biểu đạt phù hợp:

1. Hai đội bóng muốn xin phép sử dụng sân vận động của thành phố

2. Tường thuật lại diễn biến trận bóng đá

3. Tả lại những pha bóng đẹp trong trận đấu

4. Giới thiệu quá trình thành lập và thành tích thi đấu của hai đội

5. Bày tỏ lòng mền yêu môn bóng đá.

6. Bày tỏ ý kiến cho rằng bóng đá là môn thể thao tốn kém, làm ảnh hưởng không tốt tới việc học tập và công tác của nhiều người.

Trả lời:

1. Hành chính – công vụ

2. Văn bản tự sự

3. Văn bản miêu tả

4. Văn bản thuyết minh

5. Văn bản biểu cảm

6. Văn bản nghị luận

Ghi nhớ:

  • Giao tiếp là hoạt động truyền đạt, tiếp nhận tư tưởng tình cảm bằng phương tiện ngôn ngữ.
  • Văn bản là chuỗi lời nói miệng hay bài viết có chủ đề thống nhất, có liên kết, mạch lạc vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để thực hiện mục đích giao tiếp.
  • Có sáu kiểu văn bản thường gặp với các phương thức biểu đạt tương ứng: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính công vụ. Mỗi kiểu văn bản có mục đích giao tiếp riêng.

[Luyện tập] Câu 1: Các đoạn văn, thơ dưới đây thuộc phương thức biểu đạt nào?

a. Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì. Thấy Tấm bắt được đầy giỏ, Cám bảo chị:

Chị Tấm ơi, chị Tấm!

Đầu chị lấm

Chị hụp cho sâu

Kẻo về dì mắng

Tấm tưởng thật, hụp xuống thì Cám trút hết giỏ tôm tép của Tấm vào giỏ mình, rồi chạy về nhà trước.

(Tấm Cám)

b. Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng sừng sững bên bờ sông thành một khối tím thẫm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát.

(Khuất Quang Thuỵ, Trong cơn gió lốc)

c. Muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh thì phải có nhiều người tài giỏi. Muốn có nhiều người tài giỏi thì học sinh phải ra sức học tập văn hoá và rèn luyện thân thể, bởi vì chỉ có học tập và rèn luyện thì các em mới có thể trở thành những người tài giỏi trong tương lai.

(Trích Tài liệu hướng dẫn đội viên)

d. Trúc xinh trúc mọc đầu đình

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

(Ca dao)

đ. Nếu ta đẩy quả địa cầu quay quanh trục theo hướng từ tay trái sang tay phải mà chúng ta gọi là hướng từ tây sang đông thì hầu hết các điểm trên bề mặt quả địa cầu đều chuyển động, đều thay đổi vị trí và vẽ thành những đường tròn.

(Theo Địa lí 6)

Trả lời:

a. Phương thức biểu đạt: tự sự

b. Phương thức biểu đạt: miêu tả

c. Phương thức biểu đạt: nghị luận

d. Phương thức biểu đạt: biểu cảm

đ. Phương thức biểu đạt: thuyết minh

[Luyện tập] Câu 2: Truyền thuyết con rồng cháu tiên thuộc kiểu văn bản nào? Vì sao em biết như vậy?

Trả lời:

Truyền thuyết con rồng cháu tiên thuộc kiểu văn bản tự sự

Vì: Các sự việc trong truyện đọc kể kế tiếp nhau, sự việc này nối tiếp sự việc kia nhằm nêu bật nội dung, ý nghĩa.

Soạn Văn 6 Bánh Trưng Bánh Giày

Bài soạn lớp 6: Từ và cấu tạo của từ tiếng việt

Bài soạn lớp 6: Từ và cấu tạo của từ tiếng việt

I. Từ là gì?

Ví dụ: Lập danh sách các tiếng và danh sách các từ trong câu sau, biết rằng mỗi từ đã được phân cách với các từ khác bằng dấu gạch chéo:

Thần/ dạy/ dân /cách /trồng trọt/ chăn nuôi/ và /cách/ ăn ở.

(Con Rồng,cháu Tiên)

Trả lời:

Câu văn trên gồm 12 tiếng và 9 từ.

  • Tiếng gồm: thần, dạy, dân, cách, trồng, trọt, chăn, nuôi, và, cách, ăn , ở.
  • Từ gồm: thần, dạy, dân, cách, trồng trọt, chăn nuôi, và, cách, ăn ở.

Ví dụ 2: Các đơn vị được gọi là tiếng và từ có gì khác nhau?

Trả lời:

  • Tiếng để cấu tạo từ.
  • Từ để cấu tạo câu.

=> Một tiếng được coi là một từ khi tiếng ấy có nghĩa, có thể dùng để tạo câu.

Ghi nhớ: Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu.

II. Từ đơn và từ phức

Ví dụ: Dựa vào những kiến thức đã học ở bậc tiểu học, hãy điền các từ trong câu dưới đây vào bảng phân loại:

Từ / đấy / nước / ta / chăm / nghề / trồng trọt / chăn nuôi /và/ có/ tục/ ngày / Tết / làm / bánh chưng / bánh giầy.

(Bánh chưng, bánh giầy)

Trả lời:

Kiểu cấu tạo từVí dụ
Từ đơnTừ, đấy, nước, ta, chăm, nghề, và, có, tục, ngày, lễ, tết, làm.
Từ phứcTừ ghépChăn nuôi, bánh chưng, bánh giầy
Từ láyTrồng trọt.

Ghi nhớ:

  • Tiếng là đơn vị cấu tạo nên từ.
  • Từ chỉ gồm một tiếng là từ đơn. Từ gồm hai hoặc nhiều tiếng là từ phức.
  • Những từ phức được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa được gọi là từ ghép. Còn những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng được gọi là từ láy.
  • [Luyện tập] Câu 1: Đọc câu văn và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

    […] Người Việt Nam ta – con cháu vua Hùng – khi nhắc đến nguồn gốc của mình, thường xưng là con Rồng cháu Tiên.

    (Con Rồng cháu Tiên)

    a. Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ nào?

    b. Tìm những từ đồng nghĩa với từ nguồn gốc trong câu trên.

    c. Tìm thêm các từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc theo kiểu: con cháu, anh chị, ông bà…

    Trả lời:

    a. Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ ghép

    b. Những từ đồng nghĩa với từ  “nguồn gốc” câu trên là: cội nguồn, gốc gác, …

    c. các từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc theo kiểu: con cháu, anh chị, ông bà: cậu mợ, cô dì, cô chú, chú cháu, cô cháu, cậu mợ….

  • Soạn Văn 6 Bánh Trưng Bánh Giày

  • [Luyện tập] Câu 2: Hãy nêu quy tắc sắp xếp các tiếng trong từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc.

    Gợi ý về khả năng sắp xếp:

    Theo giới tính (nam, nữ): ông bà, …

    Theo thứ bậc ( trên, dưới): bác cháu, …

    Trả lời:

    Từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc có một số kiểu sắp xếp sau:

    • Theo giới tính (nam, nữ): ông bà, cha mẹ, anh chị, cậu mợ, chù dì,…
    • Theo thứ bậc (trên, dưới): bác cháu, cha con, bà cháu, dì cháu, chị em, anh em, mẹ con….
    • [Luyện tập] Câu 3: Tên các loại bánh đều được cấu tạo theo công thức “Bánh + X”:…

      Tên các loại bánh đều được cấu tạo theo công thức “Bánh + X”: Bánh rán, bánh nếp, bánh dẻo, bánh nướng, bánh gối, bánh tôm, bánh tẻ, bánh gai, bánh xốp, bánh khúc, bánh khoai,…Theo em, các tiếng đứng sau (kí hiệu X) trong những từ ghép trên có thể nêu những đặc điểm gì để phân biệt các thứ bánh với nhau? Hãy nêu ý kiến của em bằng cách điền những tiếng thích hợp vào các chỗ trống trong bảng sau:

      Trả lời:

      • Các tiếng đứng sau trong các từ ghép bánh rán, bánh nếp, bánh dẻo, bánh nướng, bánh gối, bánh tôm, bánh tẻ, bánh gai, bánh xốp, bánh khúc, bánh khoai… có thể nêu những đặc điểm về cách chế biến, chất liệu, tính chất, hình dáng của bánh.
      • Điền những tiếng thích hợp vào các chỗ trống trong bảng sau:
      Nêu cách chế biến bánh(bánh) rán, hấp, nướng, cuốn, tráng…
      Nếu tên chất liệu của bánh(bánh) nếp, gạo, khoai, tôm, tẻ, ngô, sắn,…
      Nêu tính chất của bánh(bánh) dẻo, xốp, phồng…
      Nêu hình dáng của bánh(bánh) gối, gai…

      .

      [Luyện tập] Câu 4: Từ láy được in đậm trong câu sau miêu tả cái gì?

      “Nghĩ tủi thân, công chúa Út ngồi khóc thút thít.”

      (Nàng Út làm bánh ót)

      Hãy tìm một số từ láy có cùng tác dụng ấy.

      Trả lời:

      • Từ “thút thít” trong câu miêu tả tiếng khóc của công chúa Út
      • Một số có từ láy có tác dụng miêu tả tiếng khóc là: nức nở, rưng rức, sụt sùi, I ỉ….
      • [Luyện tập] Câu 5: Thi tìm nhanh các từ láy nào thường được dùng để tả tiếng cười, giọng nói, dáng điệu?

        Trả lời:

        • Tả tiếng cười: khanh khách, hô hố, ha hả, khà khà, khúc khích,…
        • Tả giọng nói: sang sảng, khàn khàn, nhè nhẹ, léo nhéo, thánh thót, ồm ồm….
        • Tả dáng điệu: lom khom, lừ đừ, lả lướt, khệnh khạng, ngông nghênh, nghênh ngang, khúm núm, ..
        • Soạn Văn 6 Con Rồng Cháu Tiên

Bài soạn lớp 6: Bánh chưng bánh giầy

Bài soạn lớp 6: Bánh chưng bánh giầy

Tìm hiểu chung tác phẩm

  • Thể loại: Truyện truyền thuyết
  • Bố cục: Gồm 3 phần
    • Phần 1: Từ đầu -> chứng giám: Vua Hùng chọn người nối ngôi.
    • Phần 2: Tiếp -> hình tròn: cuộc đua tài dâng lễ vật giẵ các lang.
    • Phần 3: Còn lại: Kết quả cuộc thi tài.
  • Sự việc chính trong truyện:
    • Nhân lúc về già, vua Hùng Vương thứ 7 trong ngày lễ Tiên vương có ý định chọn người nối ngôi.
    • Các lang cố ý làm vừa lòng vua bằng những mâm cỗ thật đầy, thật hậu.
    • Riêng Lang Liêu được thần mách bảo dùng hai loại bánh dâng lễ Tiên Vương.
    • Vua Hùng chọn bánh để lễ Tiên Vương và tế trời đất, nhường ngôi báu cho chàng.
    • Từ đời Vua Hùng thứ 7, nước ta có tục lệ làm bánh chưng, bánh giầy trong các dịp lễ tết.
    • Soạn Văn Con Rồng Cháu Tiên

Câu 1: Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào,..

Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào, với ý định ra sao và bằng hình thức gì?

Trả lời:

  • Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh:
    • Giặc ngoài đã dẹp yên
    • Vua muốn nhân dân được ấm no
    • Nhà vua đã già
  • Ý định của vua Hùng là: Người nối ngôi phải được chí vua, không nhất thiết phải là con trai trưởng.
  • Hình thức chọn người nối ngôi: Nhân ngày lễ Tiên Vương ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi. Chính vì thế, nhà vua dùng hình thức thử tài để chọn (nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi).

=>Vua Hùng là người biết lo cho dân và rất sáng suốt trong việc chọn người nối ngôi.

Câu 2: Vì sao trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ?

Trả lời:

Lang Liêu được thần giúp đỡ vì:

  • Chàng sớm mồ côi mẹ, so với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất.
  • Tuy là con vua, nhưng “từ khi lớn lên, ra ở riêng” chàng chăm chỉ làm việc đồng áng,  sống cuộc sống như dân thường.
  • Đồng thời, chàng là người có trí sáng tạo, hiểu được ý thần: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo” và lấy gạo làm bánh để lễ Tiên vương.

=>Qua đó truyện đã thể hiện ý nguyện của nhân dân lao động, những người hiền lành, chăm chỉ sẽ luôn nhận được sự giúp đỡ khi khó khăn, hoạn nạn.

Câu 3: Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn …

Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời, Đất, Tiên Vương và Lang Liêu được truyền ngôi vua?

Trả lời:

  • Hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời, Đất, Tiên Vương vì:
    • Hai thứ bánh tượng trưng cho trời đất, cỏ cây muôn loài. Là biểu tượng cho sự đùm bọc.
    • Hai thứ bánh cũng hợp với ý vua chứng tỏ Lang Liêu là người hiểu được ý vua, nối được chí vua.
  • Lang Liêu là người được nối ngôi vua vì:
    • Lang Liêu có tài đức hơn hẳn các Lang
    • Là người thiệt thòi nhất.
    • Là người duy nhất hiểu được ý vua, nối được chí vua.

Câu 4: Hãy nêu ý nghĩa của truyện Bánh chưng, bánh giầy?

Trả lời:

  • Ý nghĩa của chuyện bánh chưng, bánh giầy:
    • Giải thích nguồn gốc hai loại bánh cổ truyền và tập tục làm bánh chưng, làm bánh giầy vào dịp tết.
    • Đề cao tục thờ cúng tổ tiên, trời đất.
    • Đề cao lao động, nghề nông trồng lúa nước
    • Phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước.

[Luyện tập] Câu 1: Trao đổi ý kiến: Ý nghĩa của phong tục ngày Tết …

Trao đổi ý kiến: Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy?

Trả lời:

Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời. Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng Trái Đất. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Vuông Tròn của người Việt Nam  Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh giầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh giầy là thức ăn trang trọng, cao quý nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc, thờ cúng tổ tiên; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước.

[Luyện tập] Câu 2: Đọc truyện này, em thích nhất chi tiết nào? Vì sao?

Trả lời:

Đọc truyện này, em thích nhất là chi tiết Lang Liêu nằm mộng và được thần đến mách bảo.

Vì, chi tiết vị thần này làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, đồng thời đây là chi tiết thường hay gặp trong truyện dân gian, thể hiện mong ước của nhân dân lao động là ở hiền sẽ gặp lành, khi gặp khó khăn sẽ nhận được sự giúp đỡ.

Kể Con Rồng Cháu Tiên Bằng Lời Văn Của Em

Soạn văn 6 ngắn nhất bài: Con rồng cháu tiên

Soạn văn 6 ngắn nhất bài: Con rồng cháu tiên

I.  Câu hỏi trong bài học

Câu 1: Hãy tìm những chi tiết trong truyện thể hiện tính chất kì lạ, cao quý về nguồn gốc và hình dạng của Lạc Long Quân và Âu Cơ

Câu 2: (Trang 8 – SGK) Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có điều gì kì lạ? Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con như thế nào và để làm gì? Theo truyện này thì người Việt là con cháu của ai?

Câu 3: (Trang 8 – SGK) Em hiểu thế nào là chi tiết tưởng tượng kì ảo? Hãy nói rõ vai trò của các chi tiết này trong truyện?

Câu 4: (Trang 8 – SGK) Thảo luận ở lớp: Ý nghĩa của truyện Con Rồng cháu Tiên. Hãy đọc thêm phần Đọc thêm để hiểu đầy đủ ý nghĩa đó hơn?

Câu 1: (Phần Luyện tập – Trang 8) Em biết những truyện nào của các dân tộc khác ở Việt Nam, cũng giải thích nguồn gốc dân tộc tương tự như truyện “Con Rồng, cháu Tiên”? Sự giống nhau ấy khẳng định điều gì?

Câu 2: (Phần Luyện tập – Trang 8)  Hãy kể diễn cảm truyện Con Rồng cháu Tiên?

Kể Về Người Chị Gái Của Em

II. Soạn bài siêu ngắn: Con Rồng cháu tiên

Câu 1: Chi tiết thể hiện tính chất lạ kỳ, lớn lao, đẹp đẽ của hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ về nguồn gốc và hình dạng:

  • Lạc Long Quân là con trai thần Long Nữ,sống được cả dưới nước và trên cạn, có nhiều phép lạ.
  • Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông (ở trên núi),  xinh đẹp tuyệt trần, gặp gỡ và kết duyên cùng Lạc Long Quân sinh ra bọc nở trăm người con trai khỏe mạnh, tuấn tú.
  • Họ chia con ra cai quản các phương kẻ trên núi, người dưới biển.

Câu 2: Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có nhiều điều kì lạ:

  • Lạc Long Quân sống dưới nước đã đem lòng yêu và kết duyên cùng Âu Cơ thuộc họ Thần Nông sống trên núi cao. Sau đó, Âu cơ sinh ra bọc trứng nở trăm người con.
  • Họ chia 50 con theo mẹ lên chốn non cao, 50 người con theo cha để cai trị.

=>Theo truyện ngày thì người Việt Nam ta là con cháu của vị thần nòi Rồng là Lạc Long Quân và của bà Âu cơ nòi giống Tiên.

Câu 3: Em hiểu chi tiết tưởng tượng kì ảo:

  • Là những chi tiết không có thật.
  • Giúp nhân vật và sự kiện lịch sử mang màu sắc thần thoại.

Câu 4: Ý nghĩa của truyện:

  • Giải thích nguồn gốc thiêng liêng của dân tộc ta.
  • Thể hiện niềm tự hào, ý nguyện đoàn kết của dân tộc Việt.

Câu 1: (Phần Luyện tập – Trang 8) Các truyện tương tự truyện Con Rồng, cháu Tiên như:

  • Truyện Quả trứng thiêng của dân tộc Mường.
  • Truyện Quả bầu mẹ của dân tộc Khơ Mú.

Ý nghĩa của sự giống nhau:

  • Đều nói về nguồn gốc của các dân tộc.
  • Khẳng định về tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em.
  • Sự gặp gỡ, giao thoa nền văn hóa giữa các dân tộc.

Câu 2: (Phần Luyện tập – Trang 8)  Để kể truyện được hay và cảm xúc, cần lưu ý một số yếu tố sau:

  • Bám sát các chi tiết cơ bản, xác định giọng kể.
  • Từ “Ngày xưa”… “hiện lên” giọng trầm.
  • “Bấy giờ”…”điện Long Trang” giọng hồi tưởng, đến “như thần” thì ngừng lâu hơn, và  “Thế rồi…” giọng cao hơn.
  •  Thể hiện tính chất của lời thoại. Đoạn cuối kể chậm và nhấn giọng.
  • Lạc Long Quân giọng khẳng khái rõ ràng và Âu Cơ dịu dàng.

III. Soạn bài ngắn nhất: Con rồng cháu tiên

Câu 1: Chi tiết thể hiện tính chất lạ kì, lớn lao, đẹp đẽ của hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ: Lạc Long Quân là con trai thần Long Nữ, sống được cả dưới nước và trên cạn, có nhiều phép lạ. Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông (ở trên núi),  xinh đẹp tuyệt trần, gặp gỡ và kết duyên cùng nhau, sinh ra bọc nở trăm người con. Họ chia con ra cai quản các phương kẻ trên núi, người dưới biển.

Câu 2: Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có nhiều điều kì lạ:

  •  Lạc Long Quân sống dưới nước đã kết duyên cùng Âu Cơ họ Thần Nông sống trên núi cao, rồi sinh ra bọc trứng nở trăm người con. 50 con theo mẹ lên chốn non cao, 50 người con theo cha để cai trị.

=>Theo truyện thì người Việt Nam ta là con cháu của vị thần nòi Rồng là Lạc Long Quân và của Âu cơ nòi giống Tiên.

Câu 3: Chi tiết tưởng tượng, kì ảo là: những chi tiết không có thật.

=>Nhân vật và sự kiện lịch sử mang màu sắc thần thoại.

Câu 4: Ý nghĩa của truyện Con Rồng cháu Tiên.

  • Giải thích nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
  • Thể hiện niềm tự hào, ý nguyện đoàn kết của người Việt.

Câu 2: Hướng dẫn: Để kể truyện được hay và cảm xúc:

  • Nắm chi tiết cơ bản, xác định giọng kể.
  • “Ngày xưa” đến “hiện lên” giọng trầm.
  • “Bấy giờ” đến “điện Long Trang” giọng hồi tưởng, “Thế rồi…” giọng cao hơn.
  •  Đoạn cuối kể chậm và nhấn giọng.
  • Lạc Long Quân khẳng khái rõ ràng và Âu Cơ dịu dàng.

IV. Soạn bài cực ngắn: Con Rồng cháu tiên

Câu 1: Chi tiết thể hiện tính chất lạ kì, lớn lao, đẹp đẽ của Lạc Long Quân và Âu Cơ về nguồn gốc và hình dạng:

  • Lạc Long Quân là con trai thần Long Nữ có nhiều phép lạ(ở nước, cả trên cạn), Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông (ở trên núi),  xinh đẹp tuyệt trần, đã kết duyên sinh ra bọc nở trăm người con trai khỏe mạnh.Họ chia con cai quản các phương kẻ trên núi, người dưới biển.

Câu 2: Kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có nhiều điều kì lạ:

Lạc Long Quân sống dưới nước đã kết duyên cùng Âu Cơ sống trên núi cao, sinh ra bọc trứng nở trăm người con.

50 con theo mẹ lên chốn non cao, 50 người con theo cha về ven biển để chiếm lĩnh các vùng đất, mở rộng nơi cư trú, làm ăn để cho gia đình tương lai trở thành dân tộc đất nước, giúp đỡ lẫn nhau dễ hơn.

=>Theo truyện thì ta là con cháu của vị thần nòi Rồng là Lạc Long Quân và của Âu cơ nòi giống Tiên.

Câu 3: Chi tiết tưởng tượng, kì ảo là những chi tiết không có thật, giúp nhân vật và sự kiện lịch sử mang màu sắc thần thoại.

Câu 4: Ý nghĩa của truyện: Giới thiệu nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, thể hiện niềm tự hào, đoàn kết của người Việt.

Câu 2: Hướng dẫn: Để kể truyện được hay và cảm xúc, cần lưu ý một số yếu tố sau:

  • Nắm chi tiết cơ bản.
  • “Ngày xưa”…”hiện lên” giọng trầm.
  • “Bấy giờ” …”điện Long Trang” giọng hồi tưởng, “Thế rồi…” giọng cao hơn.
  •   Đoạn cuối chậm và nhấn giọng.
  • Lạc Long Quân khẳng khái rõ ràng, Âu Cơ dịu dàng.

Kể Truyện Thạch Sanh Bằng Lời Văn Của em

Bài văn kể về một việc tốt em đã làm: Nhường chỗ ngồi cho phụ nữ mang thai

Bài văn kể về một việc tốt em đã làm: Nhường chỗ ngồi cho phụ nữ mang thai

Niềm hạnh phúc luôn đến với chúng ta từ những khoảnh khắc bất ngờ trong cuộc sống. Và hạnh phúc không phải chỉ là được nhận mà còn là sự cho đi. Em đã cảm thấy rất hạnh phúc khi làm được một việc tốt, em đã giúp đỡ người khác – một người vô cùng xa lạ với em.

Trường trung học của em nằm cách nhà khá xa nên em thường đi xe buýt vào mỗi buổi sáng. Thời gian đó người lớn đi làm, trẻ con như chúng em thì đi học nên chuyến xe buýt lúc 6 giờ ba mươi lúc nào cũng chật trội, có ngày còn không có cả chỗ đứng. Thân hình em nhỏ bé và gầy yếu, trông giống như mấy em học sinh tiểu học nên moi người thường nhường ghế ngồi cho em.

Hôm ấy, em lên xe buýt như thường lệ, điểm dừng gần nhà em là điểm đầu nên xe còn thưa khách, em tự chọn chỗ ngồi và yên tâm ngồi xuống. Nhưng đúng như dự đoán, xe càng chạy càng đông, em chỉ thấy mọi người kéo lên xe mà không thấy ai xuống. Những thanh niên trên xe cũng lần lượt nhường ghế cho phụ nữ có thai, những ông bà lớn tuổi và trẻ em.  Em ngồi hàng cuối khuất sau lưng hàng chục người nên không ai chú ý và dường như họ cùng ngại đi qua dòng người để xuống chỗ ngồi xa.

Thế rồi, đến điểm dừng cách trường em nửa quãng đường, em thấy một người phụ nữ khoảng gần 40 tuổi, dáng người gầy gầy, chiếc áo công nhân ôm lấy thân hình đen nhẻm của cô. Cô xách theo túi đồ nhỏ, khó khăn bước lên cửa sau. Xe đông quá nên anh phụ xe cũng không khó tính việc cô lên sai cửa. Mọi người đưa mắt nhìn cô, có ảnh mắt tò mò, có ánh mắt khinh thường, ghét bỏ. Có một anh thanh niên đã định đứng lên nhưng nhìn thấy cô còn trẻ thì lại ngồi xuống, coi như không liên quan đến mình.

Em liếc nhìn đôi chân của cô và nhận ra ngay cô đi lại không bình thường. Trong lúc em đang chuẩn bị xách ba lô nhường ghế thì cô rụt rè hỏi anh phụ xe:

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về người chị gái của em

 

Cháu ơi cho cô hỏi, đến Đông Mỹ còn xa không cháu? Con gái cô sinh ở trạm xá gần đó mà cô không biết đường.

Đông Mỹ? Chẳng phải điểm cuối chuyến xe này hay sao? Em nghĩ như vậy và anh phụ xe cũng đáp:

 

Đông Mỹ ở điểm cuối, cô cứ ở đó rồi đến khi xe dừng hẳn thì xuống.

Anh ta vừa dứt lời thì em vội gọi với từ cuối xe lên:

 

– Cô ơi, cô đến đây ngồi đi ạ. Cháu thấy chân cô không tiện, cháu cũng sắp xuống rồi ạ!

Cô có vẻ hơi ngạc nhiên nhưng rồi cũng cố gắng chen xuống, vô tình một bên chân cô lộ ra do vấp, mọi người đều nhìn thấy chiếc chân giả bằng nhựa của cô. Em cũng ngỡ ngàng vô cùng, em không nghĩ tới chân của cô lại bị như vậy. Trong ánh mắt ái ngại xen lẫn xấu hổ của người khác vì đã vô tâm, vô ý tứ, cô chậm chạp đi lại chỗ em qua sự giúp đỡ của một chị gái mặc đồ công sở.

Khi ngồi xuống, cô không quên cảm ơn em rối rít:

 

Cảm ơn cháu, cô bắt xe khách từ lúc nửa đêm lên đây, cái chân làm tội mỏi quá. Cảm ơn cháu, ngồi một lát rồi tí cô đi vào nhà con gái, con bé sinh con mà không có ai chăm sóc.

Em dường như thấy mắt mình cay cay, thương người phụ nữ không quản khó khăn để lặn lội lên chăm con gái. Cô nói nhỏ nhưng mọi người xung quanh vẫn có người nghe thấy, có người hơi cúi đầu, có lẽ họ đang hối hận vì sự thờ ơ của mình. Em đứng hỏi thăm cô và chỉ cho cô về trạm xá mà cô tìm, dặn cô gọi chuyến xe ôm để lấy sức vào chăm con, Cô cứ cảm ơn mãi.

Xe đến trường của em, em chào cô rồi xuống xe. Lòng em cứ lâng lâng cảm xúc khó tả. Đó là sự cảm thương cho cô, cho con gái cô vất vả và là cả niềm hạnh phúc khi bản thân làm được một việc tốt, dù chỉ là một việc rất nhỏ nhoi. Nụ cười hiền lành của cô chính là món quà mà em nhận được từ việc làm ấy, em cảm thấy vui và tự hào vô cùng,

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về anh trai của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về người chị gái của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về người chị gái của em

Chị gái em ngoan hiền, xinh xắn và rất tốt bụng. Gia đình em rất tự hào về chị. Hàng xóm láng giềng ai cũng khen chị lễ phép, ngoan ngoãn, học giỏi. Mỗi lần như thế em đều rất vui vẻ. Chị Bình An đối với em là người thân không thể thiếu. Nếu không có chị, tuổi thơ của em sẽ không vui vẻ và đẹp như thế.

Bài mẫu tham khảo

Gia đình là điều gì đó rất thiêng liêng và quan trọng. Ngay từ khi mới oe oe cất tiếng khóc chào đời, chúng ta đã được bảo bọc trong vòng tay gia đình. Và những người thân yêu trở thành một phần cuộc sống của chúng ta. Em cũng rất hạnh phúc khi có một gia đình yêu thương, đặc biệt là người chị gái thân thiết – người thân quan trọng đối với em.

Chị gái em tên Bình An, đây là tên mà ông nội đặt cho chị, hi vọng chị lớn lên bình an, khỏe mạnh. Sau này em thắc mắc thì mẹ bảo, chị sinh ra khi mẹ mang thai mới được gần 9 tháng nên không khỏe mạnh như những đứa trẻ bình thường khác. Chị em chào đời trước em 5 năm, năm nay đã trở thành thiếu nữ 17 tuổi xinh đẹp.

Chị em thực sự là một cô gái xinh xắn. Chị cao một mét sáu, dáng người hơi gầy, thướt tha. Da chị trắng như trứng gà bóc. Khuôn mặt tròn, hai má phúng phính dễ thương. Đôi mắt chị màu đen láy, hàng mi cong cong và sống mũi cao, miệng chúm chím. Đặc biệt khi chị cười lên sẽ thấy hai má núm đồng tiền cùng chiếc răng khểnh lấp ló. Em rất thích nhéo má của chị mỗi khi chị ấy cười.

Sức khỏe của chị qua nhiều năm đã không còn khiến bố mẹ lo lắng nữa, chị khỏe mạnh hơn và người như ngập tràn sức sống. Từ nhỏ chị đã ước mơ trở thành bác sĩ nên luôn cố gắng học tập. Tuy chị em không phải học sinh giỏi nhất lớp nhưng luôn đứng trong danh sách học sinh giỏi, các môn học chị đều giỏi. Bố mẹ em chưa bao giờ lo lắng về việc học của chị. Tuy chị bận học, càng lên lớp cao thì việc học càng nặng, nhưng chị không quên chăm lo cho bài vở của em. Có lần, thấy chị học bài mệt, em không nhờ chị xem giúp bài tập khó như mọi lần mà ngồi suy nghĩ. Nghĩ mãi nghĩ mãi đến khi gần bỏ cuộc thì chị bất ngờ ngó sang, cười cười xoa đầu em rồi giảng cho em nghe. Chị bảo không phải lo lắng, nhưng chị cũng rất vui vì em đã biết quan tâm chị rồi.

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về anh trai của em

Không giống như chị em nhà khác hay tranh cãi, chị lúc nào cũng nhường nhịn em, chăm sóc em. Bố mẹ có mua đồ gì chị cũng thoải mái để em thứ em thích. Phần thưởng ở trường ở lớp của chị ngoài đưa cho mẹ còn để mua bánh kẹo, những món quà xinh xinh cho em. Em cảm thấy rất may mắn.

Có một kỉ niệm mà em vẫn nhớ mãi. Lúc em học lớp 4, một lần bị mẹ mắng oan chuyện cái bình hoa bị vỡ do con mèo, em giận dỗi bỏ ra nhà văn hóa gần nhà ngồi. Chờ đến khi trời gần tối, bố mẹ vẫn không đi tìm. Từ xa, em chợt nhìn thấy chị còn đeo ba lô, mặc đồng phục, chạy như bay lại. Em tủi thân, bật khóc nức nở. Chị cứ ngồi cạnh vỗ về mãi, sau đó cõng em về nhà.

Chuyện lớn nhỏ hàng ngày em đều tâm sự với chị, vui buồn đều có chị chia sẻ. Từ nhỏ đến bây giờ, chị không bao giờ nổi cáu với em, luôn luôn lắng nghe, động viên và cổ vũ em. Những cánh đồng lộng gió, những con đường ngập tràn ánh nắng, nhà văn hóa, căn phòng nhỏ,… tất cả đều đong đầy kỉ niệm vui đùa của hai chị em. Những câu chuyện của chị về ước mơ, về hoài bão truyền cho em rất nhiều động lực để tiếp tục cố gắng. Mỗi năm mới, mỗi mùa Trung thu qua chị đều cùng em trải qua.

Chị gái em ngoan hiền, xinh xắn và rất tốt bụng. Gia đình em rất tự hào về chị. Hàng xóm láng giềng ai cũng khen chị lễ phép, ngoan ngoãn, học giỏi. Mỗi lần như thế em đều rất vui vẻ. Chị Bình An đối với em là người thân không thể thiếu. Nếu không có chị, tuổi thơ của em sẽ không vui vẻ và đẹp như thế.

Tả Người Thân Yêu Tả Bà Em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về anh trai của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về anh trai của em

Vì vẻ ngoài của mình, bạn bè hay trêu chọc anh yếu đuổi, nhưng anh Minh rất khỏe mạnh. Anh thẳng thắn và thật thà, từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ nói dối bố mẹ. Hồi bé rất nghịch ngợm, phá phách nhưng vẫn giúp bố mẹ việc nhà, chăm em. Càng lớn anh ấy càng chín chắn và trầm tính hơn, giống như thừa hưởng gen của bố, anh rất ít nói, chỉ là hay thích cười. Mỗi khi cười sẽ lộ ra má núm và răng khểnh

Bài mẫu tham khảo

Gia đình – hai tiếng đơn giản ấy thôi mà sao thân thương quá. Gia đình là món quà vô giá, là điều quan trọng nhất đối với em. Em may mắn được sinh ra và lớn lên trong một gia đình hạnh phúc, không những có bố mẹ ông bà yêu thương, chở che mà còn có một người anh trai cưng chiều hết mực.

Khi em còn bi bô tập nói, anh trai em đã biết đá bóng, chơi cầu lông. Anh ấy hơn em những chín tuổi nên rất yêu thương và chiều chuộng em. Anh trai em được bố mẹ đặt tên là Minh, mang ý nghĩa mong anh ấy trưởng thành thông minh, chính trực. Năm nay anh Minh đã 21 tuổi, hiện đang là sinh viên năm cuối một trường đại học về công nghệ thông tin. Ngày trước, anh trai em rất gầy và nhỏ con, vậy mà lên đại học được một năm, anh ấy chợt trở nên khỏe mạnh và cao lớn hơn rất nhiều. Anh cao khoảng gần một mét tám, em đứng kiễng chân cũng chỉ cao đến ngực anh ấy. Mái tóc anh đen và thường được cắt tỉa gọn gàng lộ ra vầng trán cao thông minh. Khuôn mặt anh nghiêm nghị, chín chắn, mũi cao và đôi mắt đen láy, nhưng hàm răng trắng lại nhô lên chiếc răng khểnh rất dễ thương. Không giống như nhiều thanh niên cùng tuổi khác, phơi nắng sẽ ngăm ngăm đen mà da anh trai em lúc nào cũng trắng, hồi còn nhỏ mẹ bảo anh ấy nghịch ngợm suốt ngày vẫn không bị đen da, em ghen tị vô cùng.

Tả Hình Ảnh Mẹ Lúc Chăm Em Ốm

Vì vẻ ngoài của mình, bạn bè hay trêu chọc anh yếu đuổi, nhưng anh Minh rất khỏe mạnh. Anh thẳng thắn và thật thà, từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ nói dối bố mẹ. Hồi bé rất nghịch ngợm, phá phách nhưng vẫn giúp bố mẹ việc nhà, chăm em. Càng lớn anh ấy càng chín chắn và trầm tính hơn, giống như thừa hưởng gen của bố, anh rất ít nói, chỉ là hay thích cười. Mỗi khi cười sẽ lộ ra má núm và răng khểnh.

Giống như hi vọng khi bố mẹ đặt tên, anh trai em rất thông minh, trong quá trình học tập thành tích luôn ổn định, chăm ngoan lại tốt bụng nên bạn bè và thầy cô đều yêu quý. Các bạn cùng lớp em hay kể học sinh độ tuổi như anh em lúc 16 17 tuổi nổi loạn và thường đánh nhau, nhưng em chưa bao giờ thấy anh ấy xô xát với ai.

Bố mẹ bận làm việc, em không có chị gái hay bạn bè hàng xóm cùng tuổi nên thường bám lấy anh trai hỏi đủ thứ chuyện trên đời. Dù anh bận học, bận ôn thi vẫn kiên nhẫn giải đáp mười vạn câu hỏi vì sao của em, không hề nổi cáu. Tất cả đồ mẹ mua cho anh đều nhường nhịn em chọn trước, chẳng bao giờ giành với em. Cũng bởi vì thế mà em rất yêu quý anh. Anh em còn nấu ăn rất giỏi, bố mẹ đi vắng đều không lo vì cơm nước anh trai sẽ lo hết. Em thường kể cho bạn trong lớp nghe, đứa nào cũng ngưỡng mộ.

Lúc em lên lớp 3 thì anh Minh vào đại học, hôm anh chuẩn bị lên thành phố, em cứ khóc mãi. Anh Minh phải vừa cười vừa dỗ hứa khi nào về sẽ mua búp bê em mới cho đi. Anh trở thành sinh viên nhưng tháng nào cũng đều đặn về nhà, tiền làm thêm lần đầu tiên của anh để mua cho em một con búp bê rất to, xinh đẹp. Anh không chơi bời, tiêu tiền phung phí mà rất tiết kiệm, chẳng bao giờ gọi về nhà xin tiền mẹ. Bố mẹ vì vậy yên tâm và tự hào về anh lắm.

Em cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi có người anh trai thông minh, ngoan ngoãn và tài giỏi. Anh Minh không chỉ là người anh trai mẫu mực luôn yêu thương, nhường nhịn em mà còn là người em vô cùng ngưỡng mộ, tự hào. Em luôn tự nhủ phải cố gắng phấn đấu học tập và rèn luyện để trưởng thành như anh, xứng đáng với sự yêu thương, tin tưởng của anh trai và bố mẹ.

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về người ông của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể về người ông của em

Kể về người ông của em – bài mẫu 1

Ông tôi nhiều con cho nên cũng lắm cháu. Tôi chưa thấy ai yêu và quyến luyến với lũ cháu như ông. Ông thường thẳng thắn bộc bạch: Khi có cháu, lại thấy yêu cháu hơn con rất nhiều!”. Lũ chúng tôi cũng yêu quý và gắn bó với ông lắm. Nhất là tôi, thằng cháu “đích tôn” như ông vẫn trìu mến gọi vậy.

Bài văn tham khảo

Trong gia đình, tôi yêu quý tất cả mọi người, nhưng người mà tôi yêu mến nhất, kính trọng nhất vẫn là ông nội. Bất cứ lúc nào, hình ảnh của ông cũng thật ngọt ngào trong trái tim tôi.

Nội tôi nam nay đã ngoài sáu mươi. Khuôn mặt ông vuông vuông chữ điền trông thật hiền từ phúc hậu. Dòng chảy của thời gian đã làm nước da ông sạm lại với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt lại đầy những vết chân chim. Trong mắt tôi, mặc ông vẫn còn trẻ trung lắm. Mái tóc nội đã điểm bạc rất nhiều. Có lẽ với tôi, hạnh phúc nhất là được nằm trong lòng ông, tay vuốt ve chòm râu điểm bạc, ngước nhìn đôi mắt ấm áp, hiền từ của ông. Lúc đó tôi có cảm giác như đang ở trong truyện cổ tích, như có ông Bụt ở bên với bao phép màu tốt lành và đẹp đẽ.

Tôi rất thích nắm tay ông, được thấy hơi ấm nóng từ tay ông truyền sang, thật là khoan khoái. Bố mẹ đi làm suốt ngày, ông với tôi sao mà thân thiết thế. Giọng nói của ông trầm trầm và rất truyền cảm, bởi hồi trẻ ông đã là một cây” kịch nói nghiệp dư nổi tiếng của trung đoàn. Chính vì thế, ông ru hoặc kể chuyện, lũ cháu chúng tôi nghe, chỉ được một lúc là dip cả mắt lại. Ông tôi nhiều con cho nên cũng lắm cháu. Tôi chưa thấy ai yêu và quyến luyến với lũ cháu như ông. Ông thường thẳng thắn bộc bạch: Khi có cháu, lại thấy yêu cháu hơn con rất nhiều!”. Lũ chúng tôi cũng yêu quý và gắn bó với ông lắm. Nhất là tôi, thằng cháu “đích tôn” như ông vẫn trìu mến gọi vậy.

Kể truyền thuyết con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em

Ông tôi thương bà tôi lắm. Thế nên ông vẫn thường phụ bà nấu ăn hay dọn dẹp. Tôi thấy ông tôi nấu ăn còn giỏi hơn cả bà tôi nấu. Đứng cạnh ông, bà tôi trờ nên vụng về, lúng túng. Bà thường tự nhận “Bà của cháu mồ côi sớm nên việc bếp núc, nội trợ đi làm đoảng vị quá!”. Cứ sáng sớm, sau khi tập thể dục, luyện vài bài dưỡng sinh là ông lại xách giỏ đi chợ. Ông đâm nghiện những tiếng chào mời, lời kì kèo qua lại của cái chợ nhỏ nằm tại khu chung cư của chúng tôi. Những thứ ông mua đều tươi rói, vừa ngon lại vừa đẹp mắt bởi nhiều màu sắc. Ông nấu nướng ngon lắm, mời các bạn đến nhà tôi mà xem, ông tôi sẽ trổ tài nghệ tuyệt vời của mình để các bạn thưởng thức. Đố có mà chê nổi. Tôi còn quên chưa nói tới sự quan tâm đặc biệt nữa của ông mình về tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không có chương trình thời sự nào của Truyền hình, của Đài Tiếng nói Việt Nam, của báo chí nào mà ông bỏ qua. Đã thế ông còn năng trao đổi với bạn bè, không gặp gỡ, không họp hành thì ông lại gọi điện thoại. Có lẽ, điện thoại của ông tôi chỉ để làm hai việc, hỏi thăm con cháu và bàn bạc về thời sự nóng hổi. Khi nói, ông tỏ ra say sưa, nhiệt tình như có bạn mình ở trước mặt vậy. Hầu hết các thông tin về thời sự, tôi được biết qua ông mình. Mĩ đánh I-rắc cũng khiến ông tôi buồn bực, phiền muộn vô cùng, làm cả nhà xót cả ruột.

Trong nhà tôi, ông thường coi vườn cây xanh trên tầng thượng là tài sản của mình. Trên đó có bao nhiêu là cây, là hoa. Thứ nào ngoài tên ra cũng đều có lí lịch riêng của nó. Nào là kỉ niệm ngày ở chiến trường về, ngày thăm Điện Biên Phủ, ngày sinh đứa cháu đầu,… Công ông tưới bón, chăm chút, băt sâu, tạo nên vườn cây này. Sinh nhật vừa rồi của tôi, ông tặng một chiếc kèn nhỏ xinh. Tôi tự mày mò và bây giờ đã thổi được bài “Nhạc rừng” mà ông yêu thích. Ỏng tôi tự hào lắm, cứ khoe khắp khu nhà về tài của cháu mình. Nhưng tôi hiểu không phải vậy, chẳng qua ông yêu tôi quá thôi!

Tôi yêu quý yà kính mến ông rất nhiều và cũng biết ông yêu lại tôi như vậy. Ông là người hay là ông Bụt, tôi cũng không biết nữa.

Kể truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em