PHÂN TÍCH BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH – PHẠM TIẾN DUẬT
PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG THÚY KIỀU TRONG MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
THUYẾT MINH VỀ ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
PHÂN TÍCH ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG CẢNH NGÀY XUÂN
PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU

1. PHÂN TÍCH ĐỀ
– Yêu cầu đề bài: phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du thể hiện qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
– Đối tượng làm bài: nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều
– Phương pháp làm bài: phân tích
2. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CẦN TRIỂN KHAI
Luận điểm 1: Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật
Luận điểm 2: Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật
Luận điểm 3: Nhận xét chung về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du
3. LẬP DÀN Ý
1, Mở bài:
– Giới thiệu về Truyện Kiều và nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du: nghệ thuật miêu tả nhân vật là một trong những điểm sáng. Qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã phần nào chứng minh điều đó.
2, Thân bài:
a, Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:
* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.
– Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.
+ Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.
+ Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.
– Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.
– Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.
⇒ Nhận xét:
– Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.
– Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.
– Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.
* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh.
– Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
– Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.
– Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:
+ Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.
+ Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.
⇒ Nhận xét:
– Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.
– Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả
b, Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật: qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
* Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
– Cảnh vật được nhìn qua con mắt của kẻ đang đau buồn như Thúy Kiều tràn ngập 1 màu ảm đạm, u ám, cô liêu: 8 câu thơ cuối bài, cảnh vật được nhìn bằng sự cô đơn, sợ hãi của Kiều, tác giả miêu tả tâm trạng Kiều thông qua những hình ảnh thiên nhiên như thuyền, cánh hoa trôi trên dòng nước, gió thét, sóng gào.
* Thủ pháp độc thoại nội tâm
– Tác giả tả tâm trạng nhớ thương của Kiều với Kim Trọng, với cha mẹ thông qua 8 câu độc thoại nội tâm của Kiều, từ nhớ thương người yêu đến thương xót cho phẩm hạnh, cho mối tình của hai người; từ lo lắng cho cha mẹ đến xót xa đau buồn nghĩ mình khó quay về gặp cha mẹ nữa.
c, Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật:
– Dùng cách gián tiếp để miêu tả nhân vật chính diện: dùng thiên nhiên tả vẻ đẹp, dùng thiên nhiên tả nội tâm; giọng thơ nhẹ nhàng, trang trọng, ưu ái, thương xót.
– Dùng cách trực tiếp để tả nhân vật phản diện: tả trực tiếp ngoại hình, tính cách, hành động, không sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong miêu tả; giọng thơ thể hiện thái độ tức giận, khinh ghét.
– Qua miêu tả dự đoán trước số phận nhân vật.
3, Kết bài:
– Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du qua 1 vài đoạn trích đã được học: kết hợp miêu tả với thể hiện tình cảm bản thân, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật truyền thống xen với cảm hứng nhân đạo mới.
– Nghệ thuật miêu tả nhân vật cho thấy tài năng của Nguyễn Du.
>> Có thể bạn cần: Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
4. SƠ ĐỒ TƯ DUY
Sau khi tham khảo hướng dẫn làm bài, các em có thể tham khảo các bài văn mẫu hay phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều dưới đây để có thêm ý tưởng hoàn thành bài viết của mình nhé.
BÀI CẢM NHẬN CHI TIẾT NHẤT VỀ TÁC PHẨM HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
Em Hãy Đóng Vai Vũ Nương Kể Về Cuộc Đời Mình Có Sử Dụng Yếu Tố Miêu Tả
Tôi là Vũ Nương, tôi được người làng yêu mến vì họ khen tôi công dung ngôn hạnh lại dịu dàng nết na. Trong làng có chàng tên Trương Sinh, tuy thất học nhưng giàu có nên chàng đã xin cha mẹ cưới tôi về làm vợ.
Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích : “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Chàng vẫn không tin, đánh đuổi tôi đi. Vì quá oan khuất và tủi hổ, tôi đã đến bến sông Hoàng Giang trầm mình. Rơi vào khoảng không tăm tối, tôi bỗng choàng dậy, thấy bản thân đang ở nơi cung điện nguy nga, xung quanh đều là cá tôm bơi lội, tôi mới biết sau khi chết, vợ vua Nam Hải là Linh Phi đã thương tình cho tôi ở lại chốn cung điện này để hầu hạ nàng. Rồi tôi gặp Phan Lang, người đàn ông sống cùng làng với mình cũng được Linh Phi cứu giúp vì trước kia anh ta cũng từng cứu nàng. Tôi đã nhờ anh ta đem chiếc trâm cài về cho chồng mình và dặn chàng lập đàn giải oan cho mình. Phan Lang đi vài ngày thì trên bờ có tiếng gõ mõ, hương cúng cùng với đoàn kiệu trên mặt nước, tôi liền bước lên đoàn kiệu và xuất hiện trên sông. Cuối cùng tôi cũng được hóa giải nỗi oan khuất. Vợ chồng tương phùng nhưng cách biệt âm dương, tôi chỉ chào tạm biệt Trương Sinh lần cuối rồi biến mất.