Kể truyền thuyết con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em

 Kể truyền thuyết con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyền thuyết con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em. Truyện giải thích nguồn gốc các dân tộc trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tuy mỗi dân tộc cư trú ở những vùng khác nhau nhưng đều có chung một nguồn gốc. Các dân tộc đều là anh em cùng 1 cha 1 mẹ sinh ra. Mời bạn đọc và các em học sinh theo dõi cốt truyện

Âu Cơ nghe theo, từ biệt chồng, đưa năm mươi người con lên núi, đến vùng đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu).

Bài làm tham khảo

Mỗi chúng ta, ai sinh ra cũng mang trong mình niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Người Việt Nam ngay từ những ngày còn thơ bé đã vô cùng tự hào về giống nòi tổ tiên mình qua lời kể của bà, của mẹ từ truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”. “Con Rồng cháu Tiên” không chỉ là một truyền thuyết tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam mà còn là câu chuyện giải thích nguồn cội cha ông đầy vẻ vang của đất nước ta, là truyền thuyết mà mãi đến muôn đời sau vẫn còn lưu truyền..

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện truyền thuyết Mai An Tiêm – Truyền thuyết dưa hấu

 

Truyền thuyết kể lại rằng: Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt Lạc Việt – bây giờ chính là vùng Bắc Bộ nước ta, có một vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ. Thần mình Rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thần sinh sống dưới thuỷ cung, thỉnh thoảng lên cạn, giúp nhân dân diệt trừ yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh và dạy nhân dân cách trồng trọt, chăn nuôi.

Cũng khi ấy, ở vùng núi cao phương Bắc, có một nàng tiên cực kì xinh đẹp, thuộc dòng dõi Thần Nông, tên gọi là Âu Cơ. Nàng thích ngao du đây đó, thích đến những nơi có phong cảnh đẹp. Nghe nói vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng liền tìm đến thăm. Tại đây, Âu Cơ và Lạc Long Quân tình cờ gặp nhau. Hai người yêu nhau rồi nên vợ nên chồng. Họ sống trong cung điện Long Trang.

Ít lâu sau, Âu Cơ mang thai. Nhưng thật kì lạ, đến kì sinh nở, nàng lại sinh ra một cái bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra trăm người con trai trắng trẻo, hồng hào, khôi ngô tuấn tú. Cả một trăm người con cứ lớn nhanh như thổi, chẳng cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.

Một thời gian sau, Lạc Long Quân vì không quen sống trên cạn và nhớ biển cả nên chàng trở về thuỷ cung, để lại Âu Cơ cùng đàn con trên cạn. Ngày qua ngày, Âu Cơ chờ mãi chờ mãi, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:

– Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi dạy các con?

Lạc Long Quân nghe vậy, đành phải nói với Âu Cơ rằng:

– Ta vốn nòi Rồng, quen sống ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên, quen sống ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng nào mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chúng ta chia nhau cai quản các phương. Kẻ trên miền núi, người dưới miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.

Âu Cơ nghe theo, từ biệt chồng, đưa năm mươi người con lên núi, đến vùng đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết thì con trai trưởng sẽ nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương. Nhân dân ta từ đó luôn hết lòng đoàn kết, yêu thương nhau, cùng nhau bảo vệ đất nước, đứng lên đánh đuổi nhiều lần giặc ngoại xâm.

Cho đến hôm nay, khi nhiều thập kỉ đã qua đi, truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên vẫn được lưu giữ trong nhân dân ta, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thuyết không chỉ giải thích nguồn gốc cao quý của tổ tiên mà còn khẳng định nhân dâm Việt Nam đều là anh em một nhà, phải đoàn kết yêu thương lẫn nhau, sống xứng đáng với cội nguồn con cháu Rồng Tiên của mình.

Kể truyện cổ tích cây tre trăm đốt bằng lời văn của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện truyền thuyết Mai An Tiêm – Truyền thuyết dưa hấu

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện truyền thuyết Mai An Tiêm – Truyền thuyết dưa hấu

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện truyền thuyết Mai An Tiêm. Truyền thuyết Mai An Tiêm hay còn gọi là truyền thuyết Dưa Hấu. Truyện giải thích nguồn gốc quả theo quan niệm Dân gian. Khi kể truyện, các em học sinh chỉ cần nhớ được cốt truyện, không cần nhớ toàn bộ câu chữ. Sau đó, các em có thể dùng lời văn của bản thân để kể lại câu chuyện

Tình cờ một hôm, Mai An Tiêm phát hiện ra có một đàn chim từ phương Tây tới, chúng đậu trên bờ và đang ăn một loại hạt gì đó có màu đen láy. Mai An Tiêm nghĩ thầm:“Hạt này chim ăn được thì chắc người cũng ăn được!”. Nghĩ vậy, Mai An Tiêm liền thu gom hết số hạt lại và đem gieo trồng dưới đất.

Bài làm tham khảo

Có bao giờ bạn nghĩ những thứ xung quanh chúng ta từ đâu mà có chưa? Tại sao các đồ vât lại có tên gọi như thế? Thực ra có rất nhiều lí giải khác nhau. Ví như câu chuyện Mai An Tiêm sau đây đã lí giải nguồn gốc xuất hiện xưa hấu.

Chuyện kể rằng, vào thời Vua Hùng Vương thứ 18, có một chàng trai tên là Mai An Tiêm. Mai An Tiêm nhanh nhẹn, tháo vát, lại chăm chỉ nên được nhà vua rất mực yêu mến và còn gả cả con gái nuôi cho chàng nữa. Vua rất yêu quý An Tiêm nên thường ban cho chàng nhiều của ngon vật lạ.

Tất thẩy mọi người ai được nhận lộc vua ban đều nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm lại bảo rằng:

– Của mình làm ra mới quý, còn của biếu là của lo, của cho là của nợ!

Chàng vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề có ý trông chờ vào bổng lộc vua ban.

Tất cả chỉ chờ có thế, bon quan ninh thần bèn đem câu nói của Mai An Tiêm tâu lên nhà vua. Nhà vua vô cùng tức giận và cho rằng chàng là một kẻ kiêu bạc vô ơn. Nhà vua giận lắm: “Đã thế để xem, nếu chỉ trông vào sức mình thì hắn có sống nổi không?”. Ngài sai quân lính bắt giữ Mai An Tiêm rồi đuổi cả gia đình chàng ra đảo hoang.

Kể truyện cổ tích cây tre trăm đốt bằng lời văn của em

Cả gia đình Mai An Tiêm lênh đênh trên biển hết ngày này đến ngày khác. Cuối cùng, họ cũng cập bến lên một hòn đảo lạ. Vợ Mai An Tiêm khóc lóc kêu lên:

– Sao tôi khổ thế này? Biết vậy thì chúng ta không nên làm nhà vua tức giận!

– Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta. Chỉ cần có đôi bàn tay này thì chúng ta sẽ không sợ chết đói đâu. – Mai An Tiêm an ủi vợ.

Tình cờ một hôm, Mai An Tiêm phát hiện ra có một đàn chim từ phương Tây tới, chúng đậu trên bờ và đang ăn một loại hạt gì đó có màu đen láy. Mai An Tiêm nghĩ thầm:“Hạt này chim ăn được thì chắc người cũng ăn được!”. Nghĩ vậy, Mai An Tiêm liền thu gom hết số hạt lại và đem gieo trồng dưới đất. Ngày ngày, Mai An Tiêm ra sức chăm bón cho ruộng vườn của mình. Chẳng bao lâu sau, ruộng vườn của chàng trở nên xanh tốt, um tùm. Cây nở hoa, kết thành trái to. Đến mùa thu hoạch, Mai An Tiêm cùng với vợ con đem hết số quả đã chín về nhà. Quả nào quả nấy đều có màu xanh thẫm, khi bổ quả ra, thì bên trong ruột lại có màu đỏ tươi, mọng nước và có cả hạt màu đen nữa. Khi ăn quả, thì lại thấy quả có vị ngon, ngọt, thơm mát. Một ngày kia, có một chiếc tàu gặp bão, bèn cập bến vào đảo để tránh bão. Mõi nười lên bãi cát, thấy có rất nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn vang xa rằng có một giống quả rất ngon trên hòn đảo ấy. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi lương thực, thực phẩm cho gia đình An Tiêm để được nếm vị ngon của quả lạ. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống đã sung túc đầy đủ hơn.

Vì chim đã mang hạt quả từ phương Tây tới nên An Tiêm đặt tên cho thứ quả này là Tây Qua. Các thương lái Trung Quốc ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên sau người ta gọi lái đi là trái Dưa Hấu. Đó chính là nguồn gốc của những trái dưa hấu thơm ngon mát lành ngày nay

Kể truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em

Kể truyện cổ tích cây tre trăm đốt bằng lời văn của em

Kể truyện cổ tích cây tre trăm đốt bằng lời văn của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện cổ tích “cây tre trăm đốt” bằng lời văn của em. Truyện cổ tích cây tre trăm đốt khuyên răn con người ăn ở hiền lành, thật thà. Chớ có mưu mô, xảo quyệt rồi sẽ có ngày bị trừng trị. Với lời văn kể chuyện hấp dẫn. Các em học sinh tham khảo để làm tốt bài của mình

Về phần anh Khoai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suôi, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:

Bài làm tham khảo

Những câu chuyện cổ tích luôn song hành cùng thế hệ tuổi thơ của trẻ nhỏ, nuôi dưỡng ước mơ trẻ thơ. Tôi cũng như bao đứa trẻ khác, rất thích nghe những câu chuyện bà kể. Và như đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho tôi nghe. Câu truyện “cây tre trăm đốt” là câu truyện tôi thích nghe nhất

Kể truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em

Ngày xưa có một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu. Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muôn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến và ngon ngọt dỗ dành:

– Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm nữa, ta sẽ gả con gái cho.

Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh Khoai cày:

– Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm dốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.

anh Khoai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”

Về phần anh Khoai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suôi, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:

– Làm sao con khóc?

anh Khoai cày thưa rõ dầu duôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:

– Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ có ngay cây tre trăm đốt.

Nói xong, Bụt biến mất. anh Khoai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm dốt tre dính liền nối nhau thành một cây tre đủ trăm dốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Song, tre dài quá, vướng bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:

– Cây tre trăm đốt có rồi, sao con còn khóc?

Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:

– Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!

Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.

Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng không nói năng gì, lẳng lặng xếp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão ta dính liền ngay vào cây tre, không tài nào rứt ra được. Lão thông gia thấy vậy chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hăn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy anh Khoai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngay hôm đó. Lúc bấy giờ, anh mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. anh Khoai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.

Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, trong tôi hiện lên suy nghĩ: “Đáng đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho mình, còn những người hiền lành, chăm chỉ như anh Khoai cày sẽ được mọi người yêu quý và đạt được kêt quả tốt đẹp.

Kể truyện truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em

Kể truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em

Kể truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em

Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt, thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn hiền lành, tốt bụng, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.

Bài mẫu

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích đặc sắc. Mỗi câu chuyện cổ tích đều dạy cho chúng ta một bài học làm người ý nghĩa. Sọ Dừa chính là câu chuyện cổ tích như thế. Truyện vừa kể về cuộc đời của Sọ Dừa vừa nhắc nhở con người đạo lý sống đúng đắn.

Qua lời kể của bà, câu chuyện vẫn luôn in rõ trong tâm trí em. Ngày xưa, ngày xưa có hai vợ chồng nông dân rất nghèo, phải đi ở cho nhà phú ông nọ. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng mãi đến năm mươi tuổi mà vẫn chưa có lấy một mụn con.

Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Thế rồi, về nhà, bà có thai.

Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:

– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.

Thương con, bà để lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.

Lớn rồi Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, cứ lăn bên chân mẹ, chẵng làm được việc gì. Bà mẹ phiền lòng lắm, than phiền. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ:

– Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ nói với phú ông cho con chăn bò nhé!

Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.

Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.

Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt, thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn hiền lành, tốt bụng, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.

Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.

Kể truyện truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em

Một hôm, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.

Mẹ Sọ Dừa đến hỏi, phú ông cười mỉa mai:

– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.

Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định, nhưng Sọ Dừa lại nói rằng sẽ có đủ lễ vật. Không ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà trong nhà không những có đầy đủ sính lễ mà còn có cả gia nhân khiêng đồ sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông thấy thế hoa cả mắt, gọi ba con gái ra hỏi ý. Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là cúi đầu tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.

Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.

Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đem miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.

Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ co em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.

Sọ Dừa quả thực là câu chuyện cổ tích vô cùng ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta “ở hiền gặp lành”, người nhân hậu sẽ được hạnh phúc, kẻ ác sẽ chịu đau khổ. Mỗi chúng ta phải sống nhân hậu, tránh tham lam, ích kỉ mà nhận lại quả báo.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:

– Ò… ó… o…Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ

Kể truyện Thạch Sanh bằng lời văn của em

Kể truyện truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em

Kể truyện truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em

Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ

Bài làm tham khảo

Đời vua Hùng Vương thứ Sáu, giặc ngoại xâm ở phía bắc chỉ muốn sang chiếm nước Nam ta. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có một người đàn bà đã sáu mươi tuổi. Một hôm bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên Gióng. Điều kì lạ là không giống như bao đứa trẻ khác “ ba tháng biết nẫy, bảy tháng biết bò”, Gióng nay đã ba tuổi rồi mà không biết nói biết cười, không biết đi, biết nẫy. Rồi bỗng chợt, một ngày nọ ngoài ngõ vang lên tiếng sứ giả rao mõ báo tin nước có ngoại xâm và nhà vua đang cầu hiền tài ra giúp nước. Chợt cậu bé Gióng bật ra tiếng nói, thưa với mẹ :

– Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.

Qúa đỗi bất ngờ, nhưng thấy con có nói cười gọi mẹ, bà vui lắm vội chạy ra gọi sứ giả tới. Gặp mặt sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy truyền bảo:

Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc.

Nhận tin sứ giả tâu lên, vua tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển đến cho Gióng.

Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Dân làng đành phải lấy hoa lau buộc thêm vào để che kín thân. Sau một bữa ăn, Gióng vươn vai đứng dậy, thân cao mười thước, hắt hơi mười tiếng rồi nhảy lên ngựa sắt. Ngựa bị bẹp rúm. Sứ giả sợ hãi cho về đúc lại thành ngựa mới, có đủ nội tạng như ngựa thật, chịu được sức nặng của Gióng. Khi mang ngựa sắt đến nơi cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đang hoành hành cướp bóc ở Trâu Sơn (!). Thánh Gióng liền đội nón sắt, cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa và thét lớn: Ta là Thiên Tướng đây! Rồi giật cương, ngựa chồm lên, hí dài một tiếng và phi như gió, miệng phun lửa bừng bừng, làm cháy xém cây cối, nhà cửa mấy làng bên (tức các làng Phù Chấn, Phù Lưu và Phù Tảo được mang tên là làng Cháy hiện nay).

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện Thạch Sanh bằng lời văn của em

Gióng phi ngựa đến chỗ vua đang đóng quân nhận lệnh rồi hướng phía giặc Ân làm tướng tiên phong, quân sĩ ào ào theo sau. Thấy vậy, dân làng trên đường đội quân Gióng đi qua cũng chạy theo, từ trẻ chăn trâu, người đánh cá đến người đập đất, người chài lưới ven sông,… Hai tướng Dực và Minh của đất Hà Lỗ cũng đưa quân theo Gióng. Xung giữa trận tiền, giặc Ân bị đánh tơi bời, đứa thì bị giết, đứa sụp lạy quy hàng. Đang hăng chiến đấu, roi sắt của Gióng bị gãy, chàng liền quờ tay nhổ những khóm tre làng đầy gai mọc gần đấy quật vào quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Hàng loạt dãy tre làng được Gióng dùng vào đánh giặc. Chỗ rặng tre bị nhổ gần núi Trâu Sơn sau biến thành một dải đầm lớn gọi là đầm Thất Gian. Và những mảnh tre bị gãy ném rải rác khắp chiến trường, từ vùng Quế Dương cho đến Đông Ngàn sau này mọc thành loại tre đặc biệt có màu vàng óng ánh nên gọi là tre đằng ngà.

Đánh xong trận ở Trâu Sơn và Hà Lỗ, Gióng cho ngựa phi đến bến Bồ Đề và dừng lại uống nước sông Hồng. Vết chân của ngựa còn để lại hình lồi lõm ở một phiến đá lớn tại làng Phú Viên. Tiếp đó, Gióng lại phi ngựa vượt sông, đi ngược lên hồ Tây, rồi buộc ngựa vào gốc đa bên bờ, nhảy xuống hồ tắm. Nơi này về sau được dân làng Xuân Tảo lập đền thờ cúng. Ăn cơm nắm xong, ngựa đưa Gióng dạo khắp vùng Đông Anh, Kim Anh, Hiệp Hòa. Mỗi nơi ngựa Gióng đi qua đã để lại những cụm ao chuôm mang hình vết chân ngựa. Khi qua Phù Lỗ, đến chân núi Phù Mã, Thánh Gióng bèn cởi áo giáp sắt mắc vào cành đa, thúc ngựa lên đỉnh núi Sóc, để lại nón sắt, roi sắt, nhìn non sông đồng ruộng quanh vùng và hướng về Kẻ Đổng lần cuối, rồi một mình một ngựa bay thẳng lên trời. Hôm đó là ngày mồng chín tháng tư lịch trăng.

Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.

Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương, phong mẹ Gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương, cho làng có xóm Ban nơi Gióng sinh ra được đặt tên là làng Phù Đổng.

Từ đấy trở đi, người dân quê Phù Đổng của Gióng năm nào cũng mở hội vào ngày Gióng bay về trời, để nhớ lại chiến trận năm xưa và tưởng nhớ công ơn của vị Thánh làng mình. Trong khi đó, người dân hàng trăm làng quanh vùng núi Sóc lại mở hội để tưởng nhớ ngày Gióng sinh ra, cùng nhau nhớ về người anh hùng đã có công giúp dân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước.

Tả Phiên Chợ Theo Tưởng Tượng Của Em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện Thạch Sanh bằng lời văn của em

Bài văn mẫu lớp 6: Kể truyện Thạch Sanh bằng lời văn của em

Năm ấy, nhà vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng trong lễ kén phò mã, nàng bị con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh, Thạch Sanh nhìn thấy, giương cung vàng bắn nó bị thương, lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.

Bài làm

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại. Nó không chỉ kết tinh văn hóa dân tộc mà còn là câu chuyện ngợi ca con ngườI đất Việt. Ai trong chúng ta khi còn thơ bé chắc hẳn đều đã nghe và thuộc lòng những truyền thuyết, cổ tích về những người anh hùng. Nhắc đến anh hùng cổ tích không thể không nhắc tới Thạch Sanh. “Thạch Sanh” là một trong những câu chuyện cổ tích nổi tiếng nhất nước ta.

Truyện kể lại rằng: Ngày xưa, ở quận Cao Bình có cặp vợ chồng làm nghề đốn củi, hiền lành, yêu thương và hay giúp đỡ mọi người nhưng tuổi đã già mà chưa có con. Ngọc Hoàng thương tình bèn cho Thái tử xuống trần đầu thai. Từ đó, người vợ mang thai, nhưng đã qua nhiều năm vẫn chưa sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh qua đời…Mấy năm nữa trôi đi, người mẹ già mới sinh được đứa con trai rất khôi ngô, đặt tên là Thạch Sanh. Chẳng bao lâu sau, bà cũng qua đời. Thạch Sanh sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới gốc da, cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Ngọc Hoàng bèn sai thiên thần xuống trần dạy Thạch Sanh võ nghệ, các phép thần thông biến hóa, và ban cho Thạch Sanh búa thần làm vũ khí.

Tả Lại Ông Tiên Theo Tưởng Tượng Của Em

Vùng lân cận có người hàng rượu tên Lý Thông. Một hôm, hắn bất ngờ tìm tới và gạ gẫm Thạch Sanh kết nghĩa anh em, đón Thạch Sanh về nhà. Thạch Sanh vui vẻ nghe theo mà không hay mình đã bị lợi dụng.

Bấy giờ trong vùng có con Chằn tinh biết phép lạ thường ăn thịt người. Quan quân không làm gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho Chằn tinh. Năm ấy, đển lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ cách lừa Thạch Sanh đi canh miếu thần để chết thay. Thạch Sanh không nghi ngờ mà nhận lời đi ngay. Nửa đêm, Chằn tinh hiện ra, xông đến vồ mồi. Hai bên đánh nhau, Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh, cắt đầu xả xá nó. Chàng lấy được một bộ cung tên bằng vàng, xách đầu Chằn tinh mang về. Mẹ con Lý Thông nghe tiếng đập cửa hoảng sợ vô cùng, nhưng sau thấy đầu Chằn tinh, Lý Thông bèn dọa Thạch Sanh đã giết chết vật báu vua nuôi, bảo chàng trốn đi. Thạch Sanh vẫn thật thà, tin ngay, trở lại gốc đa cũ. Còn Lý Thông hí hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua, được vua phong tước Quận công.

Năm ấy, nhà vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng trong lễ kén phò mã, nàng bị con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh, Thạch Sanh nhìn thấy, giương cung vàng bắn nó bị thương, lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.

Công chúa bị mất tích, vua vô cùng đau khổ, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho ai cứu được nàng. Lý Thông liền tìm gặp Thạch Sanh và được chàng cho biết chỗ ở của đại bàng. Thạch Sanh xuống hang đại bàng để cứu công chúa. Chàng dùng búa thần chém đứt vuốt sắc, giết chết đại bàng rồi lấy dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Lý Thông ở bên trên kéo lên. Không ngờ, công chúa vừa được cứu lên, Lý Thông lệnh cho quân sĩ dùng dá lấp kín cửa hang lại, lần nữa hãm hại Thạch Sanh.

Thạch Sanh lần tìm lối ra và tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Thái tử mời chàng xuống thủy phủ chơi.  Để đền ơn ân nhân, vua Thủy tề tặng Thạch Sanh nhiều vàng ngọc, nhưng chàng từ chối, chỉ xin nhận một cây đàn thần làm kỉ vật rồi trở về gốc đa.

Hồn Chằn tinh và đại bàng gặp nhau, tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong kho nhà vua, đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho Thạch Sanh. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.

Công chúa từ khi về cung lại trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng cười. Các quan ngự y đều bó tay. Cho đến một hôm, Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn lúc ai oán não nùng, lúc  hờn căm uất hận. Nghe tiếng đàn thần, công chúa tự nhiên nói cườ vui vẻ, nàng xin vua cha được gặp người đánh đàn. Gặp ân nhân, công chúa vui mừng khôn xiết. Vua khi ấy mới rõ sự tình, bắt mẹ con Lý Thông vào ngục, giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng tha tội, cho cả hai mẹ con về quê làm ăn. Nhưng đến giữa đường, chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.

Vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử 18 nước chư hầu đến cầu hôn không được, bất bình mang binh lính sang vây đánh. Thạch Sanh lấy cây đàn thần ra gảy. Binh lính bủn rủn tay chân, không đánh nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ thua trận bằng một niêu cơm tí xíu vậy mà quân sĩ mười tám nước ăn mãi không hết. Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước. Mấy năm sau, vua già yếu, nhường ngôi báu cho Thạch Sanh.

“Thạch Sanh” là một câu chuyện cổ tích nhiều ý nghĩa của dân tộc ta, không chỉ ngợi ca người dũng sĩ thật thà, nhân hậu mà còn nhắc nhở chúng ta đạo lý từ ngàn đời “ở hiền gặp lành”, ác giả ác báo.

Văn 6 Kể Về 1 Người Thân Của Em

Em đã từng gặp ông Tiên trong những câu chuyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của em.

Em đã từng gặp ông Tiên trong những câu chuyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của em.

Ông Tiên hiện lên thật gần gũi biết bao! Khuôn mặt ông tròn trĩnh, phúc hậu, da dẻ hồng hào như những trái đào tiên ở thiên giới. Trên khuôn mặt của ông lão không biết đã mấy trăm năm tuổi nối bật một đôi mắt hiền từ, nhân hậu, sáng lấp lánh tựa như có thể nhìn thấu mọi sự trên đời. Nụ cười ấm áp của ông  thân thương như nụ cười của ông nội kéo theo cả chòm râu dài bạc trắng rung rung dễ mến. Mái tóc dài bạc như cước, búi củ tỏi như các cụ ông ngày xửa ngày xưa.

Bài làm

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì được phật, tiên độ trì.”

Năm tháng qua đi, truyện cổ tích đã trở thành tuổi thơ cúa rất nhiều, rất nhiều thế hệ Việt Nam. Qua những câu chuyện kể của bà, của mẹ ngày xưa, hình ảnh cô Tấm dịu hiền nết na, anh Khoai chăm chỉ càn cù, Thạch Sanh tài nghệ dũng cảm… đã in sâu vào tâm trí. Song trong những câu chuyện ấy, hình ảnh quen thuộc nhất chắc hẳn là ông Tiên.

Một buổi trưa hiu hiu gió thổi, em thiếp đi, chìm vào giấc mơ. Trong giấc mơ tuyệt vời, em may mắn gặp được ông tiên. Ông Tiên hiện lên thật gần gũi biết bao! Khuôn mặt ông tròn trĩnh, phúc hậu, da dẻ hồng hào như những trái đào tiên ở thiên giới. Trên khuôn mặt của ông lão không biết đã mấy trăm năm tuổi nối bật một đôi mắt hiền từ, nhân hậu, sáng lấp lánh tựa như có thể nhìn thấu mọi sự trên đời. Nụ cười ấm áp của ông  thân thương như nụ cười của ông nội kéo theo cả chòm râu dài bạc trắng rung rung dễ mến. Mái tóc dài bạc như cước, búi củ tỏi như các cụ ông ngày xửa ngày xưa.

em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời

Đôi tai thần kỳ của ông có thể nghe được mọi thứ, nghe được nụ cười hạnh phúc và tiếng khóc tủi hờn, bất hạnh, nghe được những âm mưu ác độc xấu xa và cả những ước mơ, những khát khao nồng nàn, cháy bỏng. Vào thời điểm con người bế tắc, ông âm thầm dõi theo và xuất hiện giúp đỡ. Trong luồng ánh sáng chói mắt, ông từ từ hiện ra với bộ quần áo mang phong cách cổ đại màu trắng, đôi guốc mộc giản dị và cây phất trần quyền năng trên tay. Ông thong dong vuốt chòm râu bạc, trầm ấm cất tiếng hỏi han. Ông mang trong mình sức mạnh kỳ diệu và tấm lòng thương cảm, yêu mến bao la.

Ông là hiện thân cho cái thiện, cho chân lý “ở hiền gặp lành”. Trong cố tích “Tấm Cám” mà bà thủ thỉ kể ngày xưa, ông Tiên nghe được nỗi lòng cô Tấm, dùng phép thuật cho cô Tấm gặp nhà vua, vượt bao khó khăn khắc nghiệt về với cuộc sống hạnh phúc ấm êm. Ông Tiên hóa phép “Cây tre trăm đốt” giúp anh Khoai trị tên địa chủ, lấy người vợ là con gái ông ta. Cảm động tình mẫu tử thiêng liêng trong câu chuyện cổ tích “Bông cúc trắng”, ông chỉ đường cho cô bé hái được hoa cúc mang về chữa bệnh cho mẹ. Với cây phất trần trong tay và tấm lòng cao cả mênh mông, ông đi đến khắp nơi nơi, mang phép màu hạnh phúc đến cho tất cả những người xứng đáng. Ông Tiên bước ra từ truyện cổ tích, bước vào nhận thức non nớt của những đứa trẻ, dạy chúng em biết phân biệt thiện ác, biết sống tốt đẹp để mai sau “ở hiền gặp lành”.

Thời gian lặng lẽ trôi đi, hình tượng ông Tiên không chỉ là hình ảnh thuộc về câu chuyện cổ tươi đẹp mà còn là biểu tượng cho tâm hồn dân tộc. Đó là những phẩm chất đời đời kiếp kiếp còn lưu – thương người và sống hiền lành, nhân hậu.

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em

 

em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời

 Em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời

Mặt trời đã nhô lên sau lũy tre làng và đang tỏa những tia nắng ấm áp của ngày mới xuống vạn vật. Gió lùa nhẹ những đám mây khiến cho chúng cứ lững lờ trôi trên bầu trời. Trời hôm nay cao và trong xanh quá! Em cảm giác như bầu trời hôm nay như rộng hơn, rộng ra mãi. Em đứng trước hiên nhà hít thở không khí trong lành và vươn vai. Sương đã tan hết khi mặt trời vừa lên.

Bài làm

Tiếng gà gáy quen thuộc báo hiệu một ngày mới đã đến. Bắt đầu từ hôm nay, em đã được nghỉ hè. Sắp tới sẽ là những ngày tháng lang thang với lũ bạn nối khố của em trong xóm.

Là một vùng quê nhỏ ở ngoại thành Hà Nội, xóm của em vẫn còn mang vẻ mộc mạc, giản dị chứ chưa có những tòa nhà cao tầng hay những trung tâm thương mại hiện đại như trên phố. Trong xóm dù không phải là những ngôi nhà cấp bốn với mái ngói đỏ tươi như xưa nhưng bức tường gạch cũ kĩ, rêu phủ kín thì vẫn còn nguyên vẹn. Trong mỗi nhà, đều sẽ có một khu vườn nho nhỏ, trồng cả rau cho gia đình và có cả những cây ăn quả đang đến mùa kết trái.

Hôm nay là một ngày đẹp trời. Vừa mới nghe tiếng gà gáy, em đã thức dậy ngay chứ không ngủ cố thêm một chút như mọi ngày nữa. Mặt trời đã nhô lên sau lũy tre làng và đang tỏa những tia nắng ấm áp của ngày mới xuống vạn vật. Gió lùa nhẹ những đám mây khiến cho chúng cứ lững lờ trôi trên bầu trời. Trời hôm nay cao và trong xanh quá! Em cảm giác như bầu trời hôm nay như rộng hơn, rộng ra mãi. Em đứng trước hiên nhà hít thở không khí trong lành và vươn vai. Sương đã tan hết khi mặt trời vừa lên. Cái lành lành của buổi sớm được thay thế dần bằng cái nóng của ngày hè. Trên bãi cỏ và những chiếc lá còn đọng lại những hạt sương long lanh như những hạt ngọc. Em hay gọi những giọt sương trên lá mỗi buổi sớm là hạt ngọc trời vì nó tinh khôi và trong trẻo quá.

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em

Ngoài vườn, vạn vật như được ông mặt trời đánh thức sau một giấc ngủ dài đêm qua. Những bông hoa hôm qua còn e ấp nụ đến hôm nay đã hé nở. Mùi hương hoa hồng được gió cuốn bay khắp cả khu vườn. Đó không phải là mùi hương đậm đặc, nồng nàn như hoa sữa mà chỉ là mùi thoang thoảng. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đã thu hút được biết bao nhiêu là ong bướm tới hút mật. Cạnh cây hoa hồng rực rỡ, có những bông hoa mười giờ đỏ rực cũng đang chuẩn bị bung nở. Hoa mười giờ không có mùi nhưng màu sắc của nó lại làm cho cả khu vườn bừng sáng lên. Ngoài đầu cổng, cây hoa giấy đã nở hoa nhiều lắm rồi. Từng bông từng bông hoa giấy đỏ, trắng, hồng xen kẽ nhau nổi bật trên nền lá xanh thẫm. Ong bướm cũng vì thế mà bay qua bay lại rộn ràng. Mỗi buổi sáng mùa hè, em đều thích đứng nhìn ngắm khung cảnh này. Nó mới đẹp và yên bình làm sao!

Những chú chim chao liệng trên bầu trời. Vừa bay vừa hót. Tiếng chim sơn ca trong trẻo, cao vút vang vọng trên bầu trời cao rộng. Những chú chim sâu lích rích nhảy giữa các luống rau, vạch lá tìm những con sâu xanh đậm, béo mập rồi sung sướng mang về cho lũ con. Những chú tu hú đậu trên cây vải kêu “tu hú” là vải đã chín đỏ mọng trên cành rồi. Xa xa, trên cành nhãn, cái tổ bồ câu xinh xắn được ông em làm thật khéo đặt lên, những chú chim bồ câu lông trắng muốt đang gật gù, cất lên từng tiếng “gù gù” đặc trưng của mình. Những âm thanh ấy hòa quyện lại với nhau như một bản hòa nhạc của buổi sớm. Thứ âm thanh quen thuộc ấy có lẽ sẽ là điều mà em nhớ nhất mỗi lúc xa nhà.

Mấy cây ăn quả trong vườn cũng đã bắt đầu ra hoa kết trái rồi. Cây nhãn với từng chùm hoa nhỏ xíu, màu vàng, lấp ló trong tán lá mang hương thơm ngòn ngọt thật dễ chịu. Chẳng bao lâu nữa, cây nhãn ấy cũng sẽ lúc luỷu từng chùm quả mà thôi. Cây đu đủ cao vút, thắng đứng vươn lên trời cũng đã có những quả to, chín vàng, bám trên thân cây như những chú lợn con bám mẹ. Nhưng em thích nhất vẫn là cây mít. Mít đã ra quả từ đầu tháng năm rồi, giờ quả của nó cũng phải to bằng bốn năm cái bát ô tô gộp lại. Mùi mít chín thơm lừng, chẳng cần có gió mà mùi hương ấy cũng bay vào làm ai cũng cảm thấy háo hức.

Dưới gốc cây nhãn, mẹ con chị gà đang thơ thẩn kiếm ăn. Chị gà mái với bộ lông bóng mượt, óng ánh mải miết bới đất tìm giun. Tìm được con giun béo mập nào, chị lại tục tục gọi lũ con, chia mồi cho chúng. Chị quăng con giun xuống rồi đứng nhìn lũ con háu ăn tranh nhau. Có vẻ như lũ gà con thích chí lắm, theo sát mẹ, cũng học chị gà mái dùng chân và mỏ để bới đất. Thế nhưng cái mỏ quá nhỏ và những cái móng ở chân chưa cứng cáp nên chúng chẳng đào được. Bông gà mẹ kêu lên quang quác, đôi cánh vỗ phành phạch không ngừng. Lũ gà con thì nhốn nháo chạy lại núp dưới đôi cánh rộng của gà mẹ. Thì ra có một con diều hâu đang lao nhanh từ trên trời xuống. Gà mẹ vừa bảo vệ lũ con, vừa mổ, vừa đạp liên tiếp vào con diều hâu. Em không hiểu chị gà mái lấy đâu ra sức mạnh để có thể đánh lại con diều hâu to gấp đôi mình, với những móng vuốt sắc nhọn đề bảo vệ cho đàn con của mình. Cuối cùng thì con diều hâu gian ác cũng phải bỏ đi trước những cú đạp như vũ bão của gà mẹ. Lũ gà con núp dưới cánh mẹ lại chui ra ngoài, tiếp tục kiếm ăn và tranh giành nhau miếng mồi.

Một buổi sáng mùa hè thật vui vẻ. Khởi động ngày mới là những gì thật thân thuộc với làng quê, xóm ngõ nhỏ này. Khu vườn nhỏ trước nhà chính là nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ đầy màu sắc của em.

 

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em

 

Giữa không gian tinh khôi của buổi sớm, em hít một hơi thật sâu để không khí trong lành lấp đầy trong phổi. Quả thực là dễ chịu! Trên cành cây, chim chóc đã bắt đầu cất tiếng hót bắt đầu một ngày mới. Những chú ong bướm cũng đã rời tổ đi kiếm mật. Hoa bắt đầu hé nở, tỏa ra mùi hương thơm mát. Phía xa xa, từng đám mây trắng vẫn lững lờ lưng chừng núi như chẳng muốn tiếp tục cuộc hành trình của mình nữa.

Bài làm

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người”

Quê hương luôn là mảnh đất mang đến cho em thật nhiều điều thú vị. Một trong số ấy là phiên chợ mỗi tháng chỉ họp hai lần vào ngày 15 và 30 hàng tháng.

Phiên chợ bắt đầu từ lúc sáng sớm. Khi ông mặt trời còn chưa thức dậy, những tia nắng đầu tiên còn chưa chiếu xuống mặt đất. Màn đêm vẫn còn bao phủ khắp không gian và làn sương trắng mỏng như tấm màn vẫn chưa tan hết. Bầu trời vẫn còn tối đen, mọi người đã lục đục sắp xếp và đến chợ để lựa chọn cho mình những chỗ ngồi tốt. Vì đây là chợ phiên, mỗi tháng chỉ họp vài lần nên sẽ không có chỗ ngồi cố định mà ai đến trước sẽ ngồi trước.

Nói là chợ nhưng thực chất đây là một bãi đất trống, bằng phẳng và rộng rãi. Vì phiên chợ họp thường xuyên nên có những cái lán được người ta dựng lên, dù không phải tạm bợ nhưng cũng không phải là kiên cố, vững chắc. Lán được dựng bằng những thân cây lớn bằng hai bắp chân người, cao khoảng chừng 2 mét, phía trên được lợp mái bằng cỏ khô, lá cọ phòng khi trời mưa, người ta còn có chỗ trú. Những chiếc lán ấy trở thành địa điểm lí tưởng cho những người bán hàng. Vì thế mà trong trí nhớ của em, mỗi lần đến phiên chợ, bà và mẹ đều phải thức dậy thật sớm để đến chợ để có thể ngồi trong những cái lán ấy. Em cũng đã có lần theo chân bà và mẹ đi phiên chợ sớm.

Tả Trận Bão Lụt Khủng Khiếp Mà Em Đã Chứng Kiến

Đó là một buổi sáng đẹp trời. Vẫn như mỗi ngày phiên chợ họp, trời vẫn còn tối đen nhưng chợ đã đông người lắm rồi. Bà và mẹ đến sớm nên ngồi trong cái lán gần lối vào của chợ – một địa điểm đẹp để buôn bán. Mẹ và bà mang theo ngô, giỏ do ông và bố đan cùng với trứng và vài con gà để bán. Mẹ sắp xếp gian hàng thật gọn gàng và đẹp mắt để chờ đón những vị khách đầu tiên.

Ông mặt trời đã thức dậy, tỏa những tia nắng xuống mặt đất. Nắng lên khiến cho những làn sương mỏng tan dần, chỉ còn lai những giọt nước trong veo đọng trên cỏ, long lanh như những hạt ngọc. Giữa không gian tinh khôi của buổi sớm, em hít một hơi thật sâu để không khí trong lành lấp đầy trong phổi. Quả thực là dễ chịu! Trên cành cây, chim chóc đã bắt đầu cất tiếng hót bắt đầu một ngày mới. Những chú ong bướm cũng đã rời tổ đi kiếm mật. Hoa bắt đầu hé nở, tỏa ra mùi hương thơm mát. Phía xa xa, từng đám mây trắng vẫn lững lờ lưng chừng núi như chẳng muốn tiếp tục cuộc hành trình của mình nữa.

Người đến chợ ngày càng đông. Đủ mọi mặt hàng được bày bán. Phía cuối chợ là hàng cá của những cô chú hàng chài. Những con cá tươi ngon, vảy bạc trắng, miệng vẫn còn ngáp ngáp để thở được bày trên những cái mẹt được lót lá chuối hoặc là một tấm lưới giống như chiếu nhưng được đan dày hơn. Trước mẹt cá là những chiếc chậu nhỏ, đầy cua, ốc và cả những con trai béo mập, to tướng. Lũ trẻ con theo bà, theo mẹ đi chợ thích nhất là nhìn những con cua đen trũi với cái càng to chạy loạn trong chậu. Người bán hàng là một người phụ nữ khoảng tầm 30 tuổi. Nước da của cô ấy ngăm ngăm, khuôn mặt tròn tròn bầu bĩnh và miệng lúc nào cũng nở nụ cười tươi tắn dù rất nhiều khách hàng hỏi. Ngồi gần đó là cô hàng rau. Những mớ rau xanh non, mát mắt được bó thành từng bó nhỏ nhỏ xinh xinh và được sắp xếp gọn gàng. Rau nào ra rau ấy chứ không phải vứt lên sạp một cách bừa bộn. Sạp hàng của cô nho nhỏ mà lại đầy màu sắc. Góc bàn cô bày nào rau muống, nào rau cải, nào rau ngót, chính giữa là những túi nhỏ đựng các loại rau thơm, túi nào cũng đầy đặn, phủ một lớp nước trên bề mặt. Gần cô hơn là những quả cà chua đỏ chót, những quả chanh xanh rì, quả chuối xanh, quả ớt đỏ vàng. Chỉ là một sạp bán rau thôi mà cũng có đủ thứ màu sắc rồi. Cô bán hàng như một người nghệ sĩ, chỉ cần ai đó nói muốn mua rau gì, tay cô lại thoăn thoắt, vừa lấy rau, vừa gói lại cẩn thận, miệng thì trò chuyện, tươi cười. Chao ôi, sao mà cô ấy có thể làm được thế nhỉ?

Trong chợ cũng có những cô, những bà bán đồ ăn. Nào xôi, nào bánh cuốn, nào bánh đúc. Có cả một bác bán phở ở góc bên phải của chợ. Bác có một gánh phở, được sắp xếp rất khéo. Bà em bảo, bác là người Hà Nội lên đây nên phở bác nấu và cách bác bày biện cho gánh phở cũng mang phong cách nhẹ nhàng, thanh lịch của người Hà Nội. Bát phở ngày ấy cũng chẳng cầu kì. Bác có một chiếc đĩa to, trên đó đặt nhân của phở có thịt gà, thịt lợn, bung, mọc. Ngoài rìa của đĩa là rau thơm, hành hoa, rau mùi cắt nhỏ. Bên kia của gánh là chiếc bếp than hồng với nồi nước dùng thơm lừng nghi ngút khói. Bác không làm sẵn mà chỉ có người ăn bác mới tráng phở, bỏ nhân, rau thơm vào rồi chan nước dùng là bát phở nóng hổi đã sẵn sàng. Em vẫn còn nhớ mùi vị ngọt thanh, thơm thơm, miếng thịt xíu mềm mềm đủ vị của bác mà bà đã từng mua cho em ăn. Mùi vị ấy đến gờ em không còn được nếm thử nữa, vì không biết bác bán phở đã chuyển đi đâu mât rồi.

Chợ càng lúc càng đông người, mọi người ai cũng cười nói vui vẻ. Theo phía sau các bà các mẹ vẫn là những đứa bé mập mạp với khuôn mặt háo hức, nụ cười thường trực trên môi. Trên tay mỗi đứa cũng đang cầm đồ ăn, ăn với vẻ hài lòng. Chao ôi, chúng nó ăn mới ngon lành làm sao. Em còn nhớ mãi khuôn mặt của một bé gái với khuôn mặ bầu bĩnh. Chắc bé chỉ khoảng ba tuổi thôi. Trên mặt lấm lem những đất cát, chắc vừa chơi cùng với mấy đứa trẻ kia. Trên khuôn mặt non nớt ấy nổi bật đôi mắt to, tròn, trong veo. Em yêu đôi mắt của bé ấy quá. Nhìn thấy nó em như thấy cả một bầu trời đầy sao lấp lánh vậy. Bé đang cầm một chiếc kẹo mật nhỏ xíu, cho trong miệng ăn ngon lành. Đôi môi bé xinh cứ hé ra hợp vào mút chiếc kẹo. Nhìn bé em chỉ muốn tiến lại gần, thơm lên đôi má núng nính ấy một cái mà thôi.

Em ngồi trong lán quan sát phiên chợ còn bà và mẹ thì mải bán hàng. Hai người chỉ dặn em không được đi xa vì có thể sẽ bị lạc. Bà và mẹ thì luôn tay, em chỉ có thể giúp gói đồ, buộc lại đưa cho các bác đang đứng ngoài, chứ cũng không biết bán thế nào. Chợ cứ đông đúc như thế cho đén tận giữa trưa. Mặt trời lên đến đỉnh đầu nên người đến chợ cũng thưa dần, mọi người cũng chuẩn bị thu dọn đồ đạc để về nhà. Nhà ai cũng cách chợ 5-6 cây số nên phải về nhà sớm, trước khi mặt trời lặn. Bà và mẹ đã bán gần hết số đồ đạc hai người mang đi, chỉ còn lại một ít trứng và mấy cái giỏ. Em giúp hai người thu dọn những thứ linh tinh, quét sạch rác rưởi trong và xung quanh lán rồi theo bà và mẹ trở về nhà.

Phiên chợ đã hết nhưng ấn tượng của nó thì vẫn sẽ còn lại mãi trong tâm trí của em với sự nhộn nhịp, dân dã và bình dị ấy. Bây giờ em đã lớn, chợ phiên cũng họp thường xuyên hơn nên em cũng không còn háo hức như ngày còn bé nữa. Nhưng dù thế nào, phiên chợ ở quê em vẫn sẽ là kỉ niệm đẹp mà em mang theo trong suốt quãng đời sau này.

Kể về một tấm gương tốt giúp đỡ bạn bè mà em biết.

 

Kể về một tấm gương tốt giúp đỡ bạn bè mà em biết.

Kể về một tấm gương tốt trong học tập hay trong việc giúp đỡ bạn bè mà em biết.

Mỗi buổi chiều, em, Bình và Minh rủ nhau ra công viên gần nhà ba đứa, cùng nhau chạy quanh hồ. Lúc đầu Bình không theo kịp tốc độ chạy của hai đứa em, bạn ấy thở dốc và thường xuyên bảo nghỉ giữa chừng. Ban đầu còn đỡ, nhưng vừa chạy được một lúc Bình đã muốn nghỉ, em cũng thấy bực bội, khó chịu.

Bài làm

Cha ông ta đã từng dạy con cháu Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng để nhắc nhở mỗi chúng ta về sự ảnh hưởng của những người mà ta chơi tới chính bản thân mình. Trong lớp em có bạn Minh – một người bạn vừa học giỏi lại hay giúp đỡ bạn bè.

Minh là một cậu bé với vóc dáng phổng phao. So với các bạn cùng trang lứa, Minh cao lớn hơn hẳn. Nhìn Minh đứng trong hàng cùng với các bạn lớp em, ai cũng nghĩ bạn ấy là học sinh lớp 8 lớp 9 chứ không ai nghĩ bạn ấy mới chỉ là học sinh lớp 6. Tuy là cao lớn Minh có dáng người hơi mập mạp, nhìn bạn ấy đáng yêu giống hệt chú mèo máy Doreamon vậy. Vì thế mà cả lớp em chẳng ai gọi tên, toàn gọi bạn ấy là Doreamon thôi. Minh cũng thật vui vẻ nhận biệt danh ấy. Mái tóc của Minh hơi xoăn nhưng được cắt tỉa rất gọn gàng. Minh có một đôi mắt rất đẹp. Bố bạn ấy là người Ấn Độ nên mắt của Minh rất sâu và lôi cuốn được ánh nhìn của người đối diện. Nụ cười của Minh trong veo, gần gũi và ấm áp. Mỗi lần bạn ấy cười, đôi mắt khẽ nheo lại, miệng lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp.

Hãy tả lại hình ảnh một cụ già đang ngồi câu cá bên hồ Văn 6

Minh học rất giỏi. Hồi cấp I, chưa năm nào bạn ấy không được ở trong đội tuyển học sinh giỏi của trường. Sở trường của Minh là Toán. Bạn ấy quả thực rất mẫn cảm với những con số. Bài toán khó nào vào trong tay Minh cũng chỉ một lát là xong, trong khi bọn em phải ngồi suy nghĩ cả buổi cũng chưa chắc đã tìm ra cách giải. Minh rất thông minh. Những kiến thức trên lớp, thầy cô chỉ cần giảng một lần là bạn ấy có thể nhớ kĩ và vận dụng nó một cách thuần thục trong việc giải Toán. Minh được cả lớp bầu làm lớp trưởng, kiêm lớp phó học tập phụ trách môn Toán. Từ khi có Minh phụ trách, môn Toán của lớp tôi tốt hơn hẳn. Bởi Minh nhiệt tình giúp đỡ các bạn, đặc biệt là những bạn học yếu, kém trong lớp. Em chưa thấy có người nào kiên nhẫn giống như Minh. Với các bạn yếu kém, Minh để các bạn học lí thuyết và nắm thật chắc trước, xong mới để các bạn vận dụng vào làm bài tập. Chỗ nào chưa hiểu, Minh sẽ giảng lại cho đến khi các bạn hiểu hẳn mới thôi.

Là một người tốt bụng, Minh sẵn sàng giúp đỡ các bạn trong lớp, một cách nhiệt tình. Trong lớp em có bạn Bình, nhà bạn khó khăn. Lúc trước, Bình sinh non, mẹ Bình sinh bạn ấy xong thì mất. Cho nên từ bé sức khỏe của Bình đã không tốt. So với những bạn nam khác trong lớp, Bình yếu hơn rất nhiều. Năm nay Bình đã học lớp 6 nhưng nhìn nhỏ, gầy tong teo, xanh xao lắm. Minh thấy thế đã nghĩ cách giúp bạn. Bạn vừa giúp đỡ Bình trong học tập, vừa lên kế hoạch giúp Bình cải thiện sức khỏe của mình. Minh rủ Bình đi chạy vào mỗi buổi chiều. Em và Minh là bạn thân nên cũng tham gia vào kế hoạch ấy của Minh. Mỗi buổi chiều, em, Bình và Minh rủ nhau ra công viên gần nhà ba đứa, cùng nhau chạy quanh hồ. Lúc đầu Bình không theo kịp tốc độ chạy của hai đứa em, bạn ấy thở dốc và thường xuyên bảo nghỉ giữa chừng. Ban đầu còn đỡ, nhưng vừa chạy được một lúc Bình đã muốn nghỉ, em cũng thấy bực bội, khó chịu. Thế này thì đến bao giờ mới có thể chạy xong một vòng? Em quay sang cáu gắt cả với Minh. Thế nhưng hoàn toàn khác với sự khó chịu và bực bội của em, Minh lại bình tĩnh hơn nhiều. Bạn ấy đến gần và ngồi xuống cạnh Bình, nhìn Bình rồi hỏi:

– Cậu mệt lắm không? Có chạy tiếp được không?

– Được… – Bình vừa nói vừa thở – Được Minh ạ, nhưng giờ tớ mệt quá. Phải nghỉ một lát mới chạy tiếp được.

Minh đưa cho Bình một chai nước rồi gọi em quay lại cùng đợi Bình. Em thấy xấu hổ trước hành động của Minh quá. Em cảm thấy mình là một đứa thật nhỏ nhen và ích kỉ. Minh đang cố giúp Bình cơ mà, còn em thì chỉ đang cố phá hỏng kế hoạch và lòng tốt của Minh thôi. Cuối cùng, nhờ sự kiên trì của Minh và lòng quyết tâm của Bình, sức khỏe của Bình đã tốt hơn rất nhiều. Bạn ấy đã có thể chạy một vòng hồ mà không nghỉ. Lực học của Bình cũng được cải thiện rõ rệt. Còn riêng với em, em cảm thấy mình đã bớt ích kỉ và biết nghĩ cho người khác nhiều hơn. Đúng là chơi với những người bạn tốt, chúng ta cũng có thể học được thật nhiều điều từ họ.

Chúng em sắp sửa kết thúc học kì I và bước vào tuần lễ nghỉ Tết. Sắp phải chia tay nhau gần 10 ngày, em sẽ nhớ Minh và Bình lắm. Em tự hứa với lòng, sẽ cố gắng trở thành một người giống như  Minh. Dù không thể học giỏi như bạn ấy, em cũng sẽ là một người tốt bụng và kiên trì.

Hãy miêu tả hình ảnh mẹ hoặc cha trong những trường hợp – Lúc chăm sóc em ốm